Đang tải dữ liệu...
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TIỀN - Thẩm Phán 13 Lớp B (thamphan13) /* Menu Horizontal top*/

Tạo banner chạy dọc hai bên

hinhlop1

hinhlop


Download Hình

Tiện ích bài đăng có ảnh thumbnail chạy ngang

GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TIỀN

bookmark and share |

Bài đăng ngày:2 thg 6, 2012


 1.1. Về thời hiệu
VBQPPL:
BLDS 2005 (Điều 162)
BLTTDS (Điều 159 và Điều 160)
Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành BLDS 1995 (điểm a, điều 6)
Pháp lệnh HĐDS
Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
  • Hợp đồng vay tiền thường được thực hiện trong thời gian dài, có nhiều thay đổi, bổ sung nên Thẩm phán cần chú ý việc xác định thời hiệu khởi kiện.
  • Hợp đồng giao kết trước 01-7-1996 thì áp dụng quy định về thời hiệu theo Điều 56 Pháp lệnh HĐDS, có thời hạn khởi kiện là 3 năm kể từ ngày “vi phạm hợp đồng”.
  • Thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo quy định cụ thể tại tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP về những trường hợp có thoả thuận mới.
  • Quy định tại Điều 162 BLDS 2005 về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện cũng phải được áp dụng cho việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng giao kết trước 01-7-1996 (vì trước đây chưa có quy định này).
  • Thời hiệu khởi kiện đối với các hợp đồng được xác lập từ 01-7-1996 đến 01-01-2005 được quy định cụ thể tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP là 2 năm kể từ 01-01-2005 nếu tranh chấp phát sinh từ 01-01-2005 trở về trước.


     Cần chú ý là Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP tính thời hiệu khởi kiện từ ngày “tranh chấp phát sinh” thì phải hiểu là ngày “vi phạm hợp đồng”(Điều 56 Pháp lệnhHĐDS), là ngày “quyền và lợi ích hợp pháp... bị xâm phạm” (điểm a khoản 3 Điều 159 BLTTDS).
1.2. Giải quyết một số loại hợp đồng vay tiền
  •   Hợp đồng vay tiền chỉ thuộc một trong 4 (bốn) dạng thức sau đây:
-     Vay có kỳ hạn, có lãi;
-     Vay có kỳ hạn, không lãi;
-     Vay không kỳ hạn, có lãi; và
-     Vay không kỳ hạn, không lãi.
  • Lưu ý: Khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, cần xác định mức lãi suất từng thời điểm khác nhau khi thời gian vay kéo dài và mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng có sự thay đổi. Một hợp đồng vay tiền gồm có 3 (ba) thời điểm tính mức lãi suất cần phân biệt như sau:
-     Mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng, vào thời điểm hai bên giao dịch.
-     Mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng, vào thời điểm vi phạm nghĩa vụ thanh toán (ngày chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán).
-     Mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng, vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
1.2.1. Hợp đồng vay tiền không có lãi
VBQPPL:
BLDS 2005 (các điều 297, 298, 299, 300, 305, 474, 476, 477 và 478)
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản (điểm b mục 1 phần I)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
  • Thẩm phán cần xác định là quan hệ vay có thời hạn hay không có thời hạn, có lãi hay không có lãi để xác định loại hợp đồng, trên cơ sở đó xác định phạm vi thu thập chứng cứ và luật áp dụng phù hợp.
  • Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi (khoản 1 Điều 477 BLDS 2005), thì bên cho vay có thể đòi nợ bất cứ lúc nào, bên vay cũng có quyền trả nợ bất cứ lúc nào nhưng phải báo cho nhau biết trước trong thời gian hợp lý, nếu không có thỏa thuận khác.
-      Khi bên cho vay đã thông báo đòi nợ mà bên vay không trả được nợ, thì ngày sau đó là ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán (ngày chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán). Dù là vay không có lãi thì bên vay vẫn phải trả cho bên cho vay một khoản lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ. Khoản lãi này được tính theo lãi suất cơ bản (khoản 2 Điều 305 BLDS năm 2005) của Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm với thời hạn kể từ ngày chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho đến khi xét xử sơ thẩm.
-      Là hợp đồng vay không có lãi thì không phải thu thập chứng cứ về việc trả lãi nhưng vẫn phải chú ý nghĩa vụ chứng minh thuộc bên đưa ra sự kiện. Ví dụ: A đòi nợ B thì A phải chứng minh có việc cho B vay. Nếu B khai rằng B đã trả nợ cho A thì nghĩa vụ chứng minh việc đã trả nợ là nghĩa vụ của B.
Các tài liệu có giá trị chứng minh thường được thu thập là: giấy biên nhận vay tiền; giấy xác nhận nợ (sau khi vay mới viết nhưng có nội dung xác nhận sự kiện vay); sổ ghi nợ có bút tích của bên vay thể hiện họ biết nội dung ghi trong sổ, v.v...
1.2.2. Hợp đồng vay tiền có lãi
VBQPPL:
BLDS 2005 (các điều 474, 476, 477 và 478)
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản (mục 4 phần I)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
  • Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi (khoản 1 Điều 477 BLDS 2005) thì bên cho vay có thể đòi nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý và được trả lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, còn bên vay cũng có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả lại tài sản, nhưng cũng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý.
  • Hợp đồng vay có lãi là loại hợp đồng có thoả thuận trả lãi. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ (thời điểm xét xử sơ thẩm)- (Điều 476 BLDS 2005).   
  • Đối với hợp đồng vay có thời hạn thì thời gian tính lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán (khoản 2 Điều 305 BLDS 2005) kể từ khi hết hạn vay. Đối với hợp đồng vay không có thời hạn thì thời gian tính lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán (khoản 2 Điều 305 BLDS 2005) kể từ khi đòi nợ (phát sinh tranh chấp).
  • Lưu ý: Cần phân biệt hợp đồng giao kết trước ngày 01-7-1996 với hợp đồng giao kết sau ngày 01-7-1996. Với các hợp đồng giao kết trước ngày 01-7-1996 thì lãi đã trả (đã trả trước ngày 01-7-1996) không phải giải quyết lại, chỉ giải quyết lại phần lãi trả sau ngày 01-7-1996. Với các hợp đồng giao dịch sau ngày 01-7-1996 thì lãi phải được điều chỉnh đúng quy định.
  • Lãi trong hạn do các bên thỏa thuận không được quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng tại thời điểm vay.
  • Không tính lãi suất theo từng thời kỳ như trước đây.
  • Chấp nhận việc nhập lãi vào nợ gốc một lần đối với trường hợp vay có thời hạn và đến hạn trả nợ mà người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình.
  • Trong thực tế việc trả nợ thường thực hiện nhiều lần. Mỗi lần trả nợ phải trừ nợ lãi, số tiền còn lại sau khi trừ lãi mới trừ vào nợ gốc.
  • Lưu ý: Những năm gần đây Ngân hàng Nhà nước không còn quy định khung lãi suất cho vay mà chỉ quy định lãi suất cơ bản, thì cần ấn định mức lãi cho phép bằng 150% lãi suất cơ bản.
1.2.3. Hợp đồng vay tiền ở tổ chức Ngân hàng, Tín dụng
VBQPPL:
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản (mục 4 phần I)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
  • Thẩm phán cần chú ý về hợp đồng vay tiền ở tổ chức Ngân hàng, Tín dụng có những quy định riêng cả về hình thức hợp đồng, việc tính lãi, tư cách chủ thể tham gia tố tụng.                  
  • Việc tính lãi và cả lãi suất nợ quá hạn đối với các khoản vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng phải theo đúng hợp đồng đã ký kết và kể từ khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong.
  • Lưu ý là theo “Điều lệ” tổ chức và hoạt động của các Ngân hàng chuyên doanh (như Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển...), thì các Chi nhánh không có quyền tham gia tố tụng khi không có uỷ quyền của Tổng giám đốc; do đó, khi thụ lý, giải quyết các tranh chấp có Ngân hàng tham gia tố tụng cần kiểm tra về uỷ quyền hợp lệ.
1.2.4. Hợp đồng vay tiền có lãi nhưng không rõ về mức lãi suất
VBQPPL:
BLDS 2005 (khoản 2 Điều 476)
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản (điểm d mục 4 phần I)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
  • Đây là trường hợp Toà án áp dụng lãi suất theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn tại thời điểm xét xử sơ thẩm (giao dịch trước 01-01-2006) hoặc theo lãi suất cơ bản (trường hợp áp dụng BLDS 2005).
  • Đây là trường hợp xác định được rằng bên vay và bên cho vay có thoả thuận có trả lãi nhưng chưa xác định mức lãi suất là bao nhiêu hoặc có tranh chấp về lãi suất (tranh chấp nhau về mức lãi đã được thoả thuận, không rõ là bao nhiêu).
*Bảng so sánh tính lãi giữa các loại hợp đồng vay:
Vay không lãi
------------------
- Lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là mức lãi suất cơ bản do NHNN quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
- Tính một mức lãi suất cho cả thời gian từ khi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán đến khi xét xử sơ thẩm.
Vay có lãi
------------------
- Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố cho loại vay tương ứng, tại thời điểm vay.
- Lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tính như trường hợp vay không lãi.
Vay NH, TD
-----------------
Lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn đều tính theo hợp đồng.


Không rõ lãi
------------------
Lãi suất bằng lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay, tại thời điểm trả nợ (thời điểm xét xử sơ thẩm).
1.2.5. Xử lý tài sản thế chấp
VBQPPL:
BLDS 2005 (các điều từ Điều 342 đến Điều 357).
Luật đất đai (các điều 113, 114 và 115)
Luật nhà ở
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP (điều 31)
Nghị định số 08/2000/NĐ-CP
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP (Điều 64)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
  • Thế chấp là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng thường được áp dụng cho loại hợp đồng vay tiền. Vì vậy, đồng thời với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tiền thì Toà án cũng phải giải quyết về tài sản thế chấp.
  • Giao dịch thế chấp cũng là một hợp đồng nên cũng phải tuân theo các quy định có hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng thế chấp có thể được lập thành văn bản riêng, cũng có thể ghi ngay trong hợp đồng mà nó bảo đảm nhưng hợp đồng thế chấp vẫn có hiệu lực độc lập và phải tuân thủ các quy định về hợp đồng thế chấp.
  • Lưu ý về hình thức của hợp đồng thế chấp. Đối với tài sản thế chấp là nhà, đất phải được công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền chứng thực cũng là cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 8 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP). Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có bất động sản đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất trong trường hợp bên bảo đảm là hộ gia định, cá nhân (điểm đ khoản 2 Điều 8 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP).
  • Riêng việc đăng ký các giao dịch bảo đảm về quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 64 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP và Điều 31 Nghị định 84/2007/NĐ-CP. Theo quy định tại khoản 3 Điều 64 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, cơ quan thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm trong đó có thế chấp quyền sử dụng đất là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Như vậy, việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất có thể thực hiện ở Uỷ ban nhân dân cấp xã và cũng có thể thực hiện ở Văn phòng nêu trên.
  • Trong trường hợp tài sản thế chấp được bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ mà phải xử lý tài sản thế chấp để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý (khoản 3 Điều 324 BLDS 2005).
  • Trong trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thế chấp (tranh chấp với người không tham gia giao dịch thế chấp) thì các bên liên quan có quyền yêu cầu Toà án giải quyết về quyền đối với tài sản thế chấp trước khi xử lý tài sản thế chấp.

Áp dụng điều 474 của Bộ luật dân sự như thế nào để tính lãi suất nợ quá hạn


Ngày 11/01/2012, Viện kiểm sát nhân dân huyện C có văn bản kiến nghị số 01/KN-VKS, kiến nghị vi phạm trong giải quyết án dân sự đối với Toà án nhân dân huyện C. Nội dung kiến nghị: Tại các bản án số 05/2011/DSST ngày 23/9/2011 của Toà án nhân dân huyện C, giải quyết vụ “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn Huỳnh Tấn Lang với bị đơn Vũ Ngọc Lễ; bản án số 06/2011/DSST ngày 30/9/2011 của TAND huyện C, giải quyết vụ “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn Nguyễn Thành Vinh với bị đơn Vũ Ngọc Lễ. Các đương sự xác lập hợp đồng vay tiền có thời hạn và có lãi. Viện kiểm sát huyện C cho rằng: Đối với lãi suất nợ quá hạn được tính bằng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố từ thời điểm quá hạn đến ngày xét xử sơ thẩm mới đúng quy định của khoản 5 Điều 474 của Bộ luật dân sự.
Ngày 18/01/2012, Toà án nhân dân huyện C có văn bản phúc đáp số 01/2012/TA-PĐKN, có nội dung: Vụ án mà Viện kiểm sát đã nêu thuộc trường hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi (lãi suất 3%/tháng). Toà án nhân dân huyện C viện dẫn khoản 5 Điều 474, khoản 1 Điều 476 của Bộ luật dân sự và điểm b khoản 4 mục I Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính, hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản để lập luận rằng: “khi đến hạn bên vay không trả tiền cho bên cho vay là hoàn toàn do lỗi của bên vay. Nếu tính lãi quá hạn theo cách tính của Viện kiểm sát kiến nghị thì gây thiệt hại cho bên cho vay (Lãi suất quá hạn khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thanh toán lại thấp hơn lãi suất trong hạn - khi bên vay chưa vi phạm nghĩa vụ là không hợp lý). Toà án áp dụng lãi suất cơ bản x 150% để tính lãi suất chậm trả là khách quan, phù hợp với quy định của pháp luật mà Toà án đã viện dẫn, phù hợp với bản án, quyết định trước đây của Toà án các cấp”.
Trên cơ sở các ý kiến khác nhau trong việc áp dụng pháp luật giữa Toà án - Viện kiểm sát nhân dân huyện C, chúng tôi cho rằng: Trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tiền, theo quy định tại khoản 5 Điều 474 của Bộ luật dân sự, trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Trong trường hợp như đã nêu trên, tại hợp đồng vay tài sản, các bên chỉ thoả thuận về lãi suất trong hạn. Về lãi suất nợ quá hạn không được các bên đương sự thoả thuận trong hợp đồng vay tài sản. Do vậy, không có căn cứ và cơ sở pháp lý để Toà án áp dụng Điều 476 của Bộ luật dân sự để tính lãi suất nợ quá hạn. Cơ sở pháp lý để áp dụng tính lãi suất nợ quá hạn trong trường hợp này là quy định tại khoản 5 Điều 474 của Bộ luật dân sự.
Theo đó, Việc tính lãi suất nợ quá hạn trong trường hợp này được tính bằng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm trả nợ (thời điểm xét xử sơ thẩm) là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 474 của Bộ luật dân sự. Bảo đảm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của cả bên cho vay và bên vay.
Mặt khác, lãi suất nợ quá hạn được tính bằng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm cũng được Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng trong tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ nội bộ ngành Toà án (Sổ tay Thẩm phán năm 2009).
Từ những lập luận, phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã nêu trong kiến nghị ở trên là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời phù hợp với nhận thức áp dụng pháp luật, hướng dẫn nghiệp vụ của Toà án nhân dân tối cao.
Do vậy, chúng tôi kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét hướng dẫn áp dụng pháp luật trong trường hợp này để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.



CHUYÊN ĐỀ DÂN SỰ

HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN – NHỮNG VƯỜNG MẮC VỀ ĐƯỜNG LỐI
GIẢI QUYẾT
*****

   Trong thời gian qua, do áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) và hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) nên việc giải quyết các tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản của ngành Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (TAND TPHCM) đã có sự chuyển biến tích cực: giảm tỉ lệ bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa án, hủy án; các bản án có hiệu lực pháp luật cũng ít sai sót nên tỉ lệ án bị giám đốc cũng giảm nhiều.

            Tuy nhiên, trong thời gian gần đây (năm 2005 và 08 tháng đầu năm 2006), các Toà án nhân dân quận huyện (TAND Q-H) đã đề cập đến một số khó khăn, vướng mắc khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, ví dụ như các trường hợp sau: hợp đồng vay tài sản do các đưong sự ký kết bị biến tướng thành hợp đồng dân sự khác (giả tạo) nhưng lại được chính pháp luật dân sự thừa nhận khi phát sinh tranh chấp; trường hợp xác định vợ, chồng phải liên đới nghĩa vụ dân sự khi giải quyết hợp đồng vay tài sản có giá trị lớn thì việc áp dụng nguyên tắc tương tự giữa Tòa án hai cấp có quan điểm khác nhau; trường hợp thực hiện hợp đồng vay tài sản có bảo lãnh của người khác hoặc chuyển giao nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng vay tài sản … Khi giải quyết một số loại tranh chấp này thì giữa các toà án vẫn có sự khác nhau về việc áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.         

Những vướng mắc nêu trên cần được thảo luận và qua đó đề nghị Ủy ban thẩm phán TAND TPHCM kết luận hoặc kiến nghị TANDTC có văn bản hướng dẫn. Vì vậy, TAND TPHCM xây dựng chuyên đề “Hợp đồng vay tài sản - những vướng mắc về đường lối giải quyết”. Đề nghị Toà chuyên trách, Phòng nghiệp vụ và các TAND Q-H nghiên cứu, tham gia thảo luận nhằm làm rõ các quan hệ, đề xuất hướng giải quyết các vướng mắc nêu trên.



I. HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN:

1/Theo quy định tại các điều 474 và 475 (BLDS 1995) và điều 477 và 478 (BLDS 2005) thì hợp đồng vay tài sản gồm có 02 loại như sau:

-Hợp đồng vay không kỳ hạn: bao gồm hai loại là vay không kỳ hạn không có lãivay không kỳ hạn có lãi.

-Hợp đồng vay có kỳ hạn: bao gồm hai loại là vay có kỳ hạn không có lãivay có kỳ hạn có lãi.

Đối với mỗi loại hợp đồng vay tài sản nêu trên thì luật quy định khác nhau về đường lối giải quyết: về thời hạn trả nợ, về lãi suất áp dụng….Nếu so sánh giữa hai BLDS (năm 1995 và 2005) quy định về vấn đề này thì chúng ta thấy rằng cả hai bộ luật thống nhất với nhau về cơ bản. Sự khác biệt lớn nhất là khác biệt về lãi suất áp dụng khi giải quyết loại tranh chấp này và cách tính lãi khi quá hạn vay. Ví dụ: khoản 5 điều 471 BLDS 1995 quy định về trách nhiệm của người vay không trả nợ đúng hạn “…phải trả lãi trên nợ gốc và lãi theo lãi suất nợ quá hạn của Ngân hàng Nhà nước…”;  tương ứng là khoản 5 điều 474 BLDS 2005; điều khoản này quy định như sau “….phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố…”.

Theo ví dụ như trên thì chúng ta có thể tính như sau:

-A cho B vay 10.000.000 đồng, hạn vay 03 tháng, lãi suất 1%/tháng. Hợp đồng xác lập vào ngày 10/02/2003, đến hết ngày 10/05/2003 là hết thời hạn thanh toán. Vào ngày 10/06/2003,  A khởi kiện. Sau khi thụ lý thì Toà án mở phiên xử vào ngày 12/08/2003.

Nếu theo quy định của BLDS 1995 thì chúng ta tính lãi như sau:

-Lãi trong hạn từ ngày 10/02/2003 đến ngày 10/05/2003: (10.000.000 đồng x 1%) x 03 tháng = 300.000 đồng.
-Lãi quá hạn tính từ ngày 11/05/2003 đến ngày xét xử 12/08/2003 theo lãi suất nợ quá hạn (tức là 150% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định) tính trên số tiền vốn 10.000.000 đồng.


Nếu theo quy định của BLDS 2005 thì chúng ta tính lãi như sau:

-Lãi trong hạn từ ngày 10/02/2003 đến ngày 10/05/2003: (10.000.000 đồng x 1%) x 03 tháng = 300.000 đồng.
-Lãi quá hạn tính từ ngày 11/05/2003 đến ngày xét xử 12/08/2003 theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố  (tức là 150% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định) tính trên số tiền vốn 10.000.000 đồng + tiền lãi  trong hạn là 300.000 đồng.

(Đề nghị các đ/c thảo luận về cách tính nêu trên).


2/Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 đã xác định tài sản là: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2005 đã nêu khái niệm về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định”. Bộ luật dân sự năm 2005 không qui định về hình thức của hợp đồng vay tài sản.

Vấn đề cần trao đổi:

1/Việc mượn đất (quyền sử dụng đất) để khai thác lợi ích trên đất:
A thỏa thuận mượn (vay) quyền sử dụng lô đất nông nghiệp (hoặc đất lâm nghiệp) thuộc quyền sử dụng của B để trồng sắn trong thời hạn 02 năm. (B có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân Tỉnh H cấp hợp pháp năm 2000). B không lấy lãi hoặc lợi nhuận % từ hoa màu do A khai thác trong thời gian mượn đất. Đến hạn, A không trả đất nên B khởi kiện.

Trong trường hợp này thì chúng ta xác định quan hệ tranh chấp giữa hai bên là quan hệ gì?

Xem điều 185, 515, 516 (BLDS 1995), điều 178, 512, 513 (BLDS 2005).


2/ Việc vay, mượn bằng ngoại tệ:
-Giải quyết hợp đồng vay tài sản mà tài sản giao dịch là ngoại tệ thì cách giải quyết như thế nào? Trường hợp nào có tính lãi và trường hợp nào thì không tính lãi ?Trường hợp thì được phép tịch thu ngoại tệ giao dịch?
- Trường hợp hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tê nhưng đã được các bên thỏa thuận quy đổi thành tiền Việ Nam tại thời điểm giao dịch, có được xem là hợp đồng vay tài sản không? Cách tính lãi như thế nào?
Xem điều 136, 137, 146 (BLDS 1995); điều 127, 128, 137 (BLDS 2005) và câu thứ 3, phần III văn bản số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 của TANDTC.
II.HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN CÓ BẢO ĐẢM CỦA NGƯỜI THỨ BA:

1/ Trường hợp bên vay tài sản chết mà không để lại di sản thừa kế thì nguyên đơn có quyền khởi kiện người thừa kế để đòi lại tài sản không? Trường hợp bên vay không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì nguyên đơn có quyền khởi kiện người bảo lãnh được không?

            Trường hợp bên nhận nghĩa vụ trả nợ cho bên vay nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay. Nguyên đơn có quyền khởi kiện bên nào? Bên người vay hay người nhận nghĩa vụ trả nợ cho người vay?

Ví dụ: Ông H ký hợp đồng vay 20 lượng vàng SJC của ông K với thời hạn 12 tháng, lãi suất 3%/ tháng. Hợp đồng vay tài sản ký 30/9/2004, ông H đã trả được 03 tháng tiền lãi. Ngày 01/01/2005 ông H bị bệnh và mất; bà Y (là vợ) và 02 con là M, N là người được hưởng di sản thừa kế của ông H gồm có: 01 căn nhà tại đường X, quận Y; số dư nợ 250.000.000 đồng của ông H đối với Công ty TNHH TM-DV Z. Về số tiền này thì công ty ký biên bản, thoả thuận trả nợ thay cho các thừa kế của ông H (biên bản lập ngày 30/06/2005) nhưng sau đó công ty thực hiện.

            Ông K nhận thấy bà Y và 02 con là M, N vẫn còn khả năng trả được nợ nên đã kiện ra Toà án nhân dân quận 10.

            Bản án sơ thẩm đã nhận định rằng bà Y và 02 người con M, N là người thừa kế hợp pháp của ông H nên phải có nghĩa vụ trả nợ cho ông K. Mặc dù trước đó giữa công ty Z và bà Y cùng 02 người con là M, N đã thỏa thuận chuyển nghĩa vụ trả nợ cho công ty  nhưng hai bên đã không thực hiện. Vì vậy, sự thỏa thuận đó là vô hiệu, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Ông K kiện bà Y và các thừa kế là có cơ sở nên Toà án đã chấp nhận yêu cầu nguyên đơn, buộc bà Y và 02 thừa kế là M, N phải trả nợ cho ông K. Sau đó, bà Y có quyền khởi kiện công ty Z để đòi số dư nợ của ông H là 250.000.000 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Y kháng cáo. Bản án phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về vụ án nêu trên thì có 02 quan điểm trái ngược nhau: -quan điểm thứ nhất đồng ý với bản án phúc thẩm; quan điểm thứ hai trái ngược với quan điểm thứ nhất, cho rằng phải bác yêu cầu ông K vì đã có sự thỏa thuận giữa ông K, công ty Z và bà Y cùng hai người con là M, N. Vì vậy ông K chỉ được quyền khởi kiện công ty Z để đòi 20 lượng vàng SJC. Tòa Dân sự đồng ý với quan điểm thứ nhất nhưng đề nghị các Toà án quận, huyện có ý kiến trao đổi thêm.
           
2/ Trường hợp bên nhận nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay đã thực hiện được một phần nghĩa vụ trả nợ rồi sau đó không trả tiếp. Nguyên đơn có quyền khởi kiện người vay hay không?

            Xem từ điều 315 đến 323; 366 đến 376 (BLDS 1995); từ điều 309 đến 317; 361 đến 371 (BLDS).
           
III. LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN:

Điều 476 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định rằng lãi suất do các bên  thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đối với loại cho vay tương ứng.

Vấn đề cần trao đổi :

Đối với vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản đã thụ lý trước  ngày 01/01/2006 nhưng đến nay (sau ngày 01/01/2006) mới giải quyết thì áp dụng điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 hay áp dụng Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/06/1997 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư Pháp và Bộ tài chính để tính lãi suất quá hạn trong hợp đồng vay tài sản?

 Đề nghị các đồng chí nghiên cứu điều 305 Bộ luật dân sự 2005 qui định về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự để trao đổi về vấn đề nêu trên.

Xem các điều 313, từ điều 467 đến 475 (BLDS 1995); điều 305, từ điều 471 đến 478 (BLDS 2005) và xem thông tư liên tịch số 01/19/06/1997 của TANDTC, VKSNDTC, BTP và BTC.

IV.HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ NHỮNG BIẾN TƯỚNG:

Thời gian gần đây, qua công tác xét xử và hướng dẫn trao đổi kinh nghiệm xét xử, TAND TPHCM phát hiện nhiều vụ án dân sự về hợp đồng vay tài sản nhưng khi thực hiện giao dịch thì bên cho vay yêu cầu bên vay phải ký kết dưới dạng là hợp đồng đặt cọc mua bán nhà hoặc hợp đồng mua bán nhà. Đồng thời, bên cho vay thu giữ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên vay. Khi đến thời hạn trả nợ, nếu bên vay không trả vốn và lãi thì bên cho vay yêu cầu tiến hành thủ tục mua bán nhà; nếu không đạt kết quả thì họ khởi kiện ra Toà án và tranh chấp hợp đồng mua bán nhà (hoặc hợp đồng đặt cọc mua bán nhà). Khi giải quyết những vụ án này, chúng tôi nhận thấy rằng nguyên đơn có nhiều sự thuận lợi về chứng cứ (do các chứng cứ này đã được chứng thực hoặc công chứng) và thường được Toà án chấp nhận yêu cầu của họ cho dù Toà án biết rất rõ đó là hợp đồng giả tạo để che giấu một hợp đồng khác. Lãi suất trong các hợp đồng này thường rất cao và vượt quá lãi suất cơ bản qui định tại điều 476 BLDS 2005.

            Vấn đề cần trao đổi:

            1/ Khi tiến hành thu thập và đánh giá chứng cứ trong các hợp đồng đặt cọc mua bán nhà hoặc mua bán nhà, nếu có đủ chứng cứ để kết luận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà hoặc mua bán nhà là giả tạo thì Toà án có thể áp dụng các qui định của BLDS để tuyên bố vô hiệu và chuyển sang xét xử hợp đồng vay tài sản với lãi suất cơ bản để buộc bên vay trả cho nguyên đơn.  
           
2/ Nếu có đủ chứng cứ kết luận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà hoặc mua bán nhà  là hợp đồng giả tạo thì Toà án chỉ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu mà không giải quyết hợp đồng vay tài sản có được không?

            Đây là những vấn đề biến tướng và phát sinh trong loại án hợp đồng vay tài sản có thế chấp. Đề nghị Ủy ban thẩm phán TAND TPHCM xem xét và có kiến nghị Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết loại án này.

            Xem từ điều 130 đến 146 (BLDS 1995); từ điều 121 đến 137 (BLDS 2005).

V. XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN :

            Điều 25 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 200o quy định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch dân sự do một bên thực hiện. Tuy nhiên, cho đến nay thì chỉ có một căn cứ duy nhất để có thể xác định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện, đó là “….nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Thực tế xét xử cho thấy rằng nguyên đơn thường không đủ chứng cứ để có thể chứng minh khoản tiền mà họ cho vay đã được bị đơn sử dụng để “….nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Vì vậy, thông thường thì Toà án chỉ buộc được một bên (vợ hoặc chồng) phải trả nợ cho nguyên đơn. Điều này sẽ dẫn đến hậu quả là sau khi giải quyết những vụ án này (chỉ xác định vợ hoặc chồng có nghĩa vụ trả nợ), việc thi hành án sẽ không thể thực hiện được vì người vợ (hoặc chồng) không chấp nhận bán tài sản chung để cho người kia thi hành án. Trong những trường hợp đó thì cơ quan thi hành án thường phải chờ vợ chồng họ tự phân chia tài sản hoặc phải chờ bản án Toà án (xét xử phân chia tài sản chung của vợ chồng) để có căn cứ thi hành án; nếu họ không tự phân chia hoặc không yêu cầu Toà án phân chia thì việcthi hành án sẽ bị kéo dài, gây thiệt hại cho nguyên đơn.
           
            Để khắc phục tình trạng nêu trên, Toà Dân sự đề xuất phương án lấy giá trị tài sản giao dịch để làm căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của người chồng (hoặc vợ) trong vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản mà chỉ có chồng (hoặc vợ) giao kết với nguyên đơn. Tiếp đó, căn cứ vào giá trị tài sản giao dịch, Toà án có thể đánh giá chứng cứ để từ đó xác định trách nhiệm liên đới của cả hai vợ chồng đối với nguyên đơn trong qun hệ vay tài sản.

            Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định tài sản chung của vợ chồng. Khoản 2, 3 điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định việc thỏa thuận bàn bạc của vợ chồng trong việc sử dụng tài sản chung có giá trị lớn.

            Vấn đề cần trao đổi:
           
1/Trong các tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, trong trường hợp nào thì xác định tài sản có giá trị lớn? Nếu đã xác định tài sản có giá trị lớn thì khi thụ lý Toà án có cần phải triệu tập vợ (hoặc chồng) của bị đơn (là người vay tài sản) vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hay không? Trong trường hợp nào thì cả vợ (chồng) của người vay tài sản được xác định là đồng bị đơn?
           
Ví dụ: bản án DS ST số 26/DSST ngày 22/8/2005 của Toà án nhân dân quận T xét xử tranh chấp về hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị B và bị đơn là Phan Thị A;  số nợ này là 20.000.000 đồng. Vì cho rằng khoản tiền này là tài sản có giá trị lớn và là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nên Toà án đã triệu tập ông Dương Đ. K (chồng bà A) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bản án sơ thẩm tuyên buộc bà A và ông K liên đới trả số nợ cho nguyên đơn.

Bản án phúc thẩm dân sự số …….. ngày 05/12/2005 của TAND TPHCM đã nhận định rằng số nợ của bị đơn đối với nguyên đơn không phải là tài sản có giá trị lớn nên đã sửa án sơ thẩm, xác định chỉ có bị đơn phải chịu trách nhiệm trả nợ cho  nguyên đơn.
Cũng bà A là bị đơn  trong một vài vụ án do các Toà án quận, huyện khác thụ lý giải quyết như: TA P, TA T… Khi xét xử phúc thẩm thì có bản án phúc thẩm sửa (theo hướng không đưa cồng bị đơn tham gia tố tụng) nhưng cũng có bản án phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm.
           
Đề nghị các đồng chí trao đổi về việc này  và Ủy ban thẩm phán sẽ kết luận.
            Toà Dân sự đề xuất: lấy giá trị tài sản từ 20.000.000 đồng trở lên để làm căn cứ xác tư cách tham gia tố tụng của đương sự trong các trường hợp nêu trên (là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan)

2/ Trong trường hợp tranh chấp hợp đồng vay tài sản có giá trị lớn, nguyên đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo qui định tại điểm 6,7,8, 10, 11 điều 102 Bộ luật tố tụng Dân sự thì người có yêu cầu phải gửi một khoản tiền, kim khí đá quý hoặc giấy tờ có giá tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện.

            Khoản 2 điều 120 BLTTDS quy định rằng khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng nơi có trụ sở Toà án đã quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng luật không nói rõ là loại ngân hàng nào (ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần….).

            Ví dụ: Toà án nhân dân quận 1 hoặc Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có trụ sở tại quận 1. Tại địa bàn này có rất nhiều ngân hàng đặt trụ sở. Vậy thì Tòa án sẽ chọn ngân hàng nào?

Đề nghị các Toà án nhân dân quận, huyện và Toà chuyên trách có ý kiến để Ủy ban thẩm phán TAND TPHCM thống nhất hướng dẫn.

           
            Xem từ điều 99 đến 126 BLTTDS và nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/04/2005 của HĐTP TATC.

            Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh rất mong các Toà án nhân dân quận, huyện nghiên cứu và tham gia ý kiến thảo luận. Nếu phát hiện có những vấn đề mới có vướng mắc cần trao đổi thì đề nghị các đồng chí bổ sung thêm để Ủy ban thẩm phán TAND TPHCM kịp thời có hướng dẫn. Trên cơ sở đó, chúng tôi mong rằng toàn ngành TAND TPHCM sẽ từng bước nâng cao chất lượng xét xử án dân sự, nhất là loại án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.

Tags:

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn

Nội quy! Đóng lại Cám ơn đã đọc bài viết!
- Từ ngày 14/08/2011 để tránh Spam do vậy Comment nặc danh xẽ bị khóa
- Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu để mọi người dễ đọc hơn!
- Mọi thắc mắc, gợi ý hoặc bình luận xin chia sẻ bên dưới hoặc Gửi thư hay Báo lỗi
- Các bạn có thể mã hóa Code TẠI ĐÂY
Thank You!
More →
Chữ đậm Chữ nghiêng Chữ nghiêng 2 Chèn Link Chèn Link Mã hóa code Help ?Nhấn vào biểu tượng hoặc kiểu chữ hoặc chèn link sau đó nhấn nút Chọn rồi copy (Ctrl + C) để paste (Ctrl + V) vào khung viết bình luận. Mã hóa code nếu bạn muốn đưa code vào bình luận.

Chọn Xóa

nhãn totunghinhsu

THÔNG TIN TỐ TỤNG HÌNH SỰ