Đề thi tốt nghiệp lớp nghiệp vụ xét xử thẩm phán 13 Học Viện Tư Pháp ở Hà Nội ngày 08-08-2012 - Thẩm Phán 13 Lớp B (thamphan13) /* Menu Horizontal top*/

Tạo banner chạy dọc hai bên

hinhlop1

hinhlop


Download Hình

Tiện ích bài đăng có ảnh thumbnail chạy ngang

Đề thi tốt nghiệp lớp nghiệp vụ xét xử thẩm phán 13 Học Viện Tư Pháp ở Hà Nội ngày 08-08-2012

bookmark and share |

Bài đăng ngày:8 thg 8, 2012


Các bạn download đề thi tốt nghiệp lớp nghiệp vụ xét xử thẩm phán 13 Học Viện Tư Pháp ở Hà Nội ngày 08-08-2012
File đề thi tốt nghiệp Hình sự Dân Sự Hành Chính lớp nghiệp vụ Xét Xử


Hướng dẫn cách làm bài thi Hình sự Học Viện Tư Pháp TPHCM


NỘI DUNG VỤ ÁN

Năm 2000 Lương Thế Toại có mua một xe ô tô 4 chỗ ngồi BKS 52N-6622 của Cao Huy Dương nhưng đứng tên trong giấy đăng ký xe là Nguyễn Thị Đức(vợ Toại) Do Công an TP. Hồ Chí Minh cấp.
          Ngày 27-02-2001Toại bán chiếc xe này cho anh Trần Quốc Cường giá 27.500 USD, hai bên có thỏa thuận nếu giấy tờ xe không hợp pháp thì bên mua sẽ trả lại xe và bên bán trả lại tiền. Sau đó, anh Cường bán xe này cho anh Nguyễn Hoàng Triệu giá 30.500USD; Anh Triệu lại bán xe cho anh Lê Thành Dân giá 37.000USD. Khi anh Dân làm thủ tục đăng ký chuyển vùng xe thì phát hiện hồ sơ chiếc xe ô tô biển kiểm soát 52N-6622 nêu trên là giấy tờ giả, nên trả lại xe cho anh Triệu và anh Triệu trả lại xe cho anh Cường. Khi anh Cường trả lại xe cho Toại đã nói rõ giấy tờ xe không hợp pháp. Toại nhận lại xe và trả cho anh Cường 10.000USD, còn nợ 17.500USD.
          Ngày 14-7-2002, Lương Thế Toại cùng vợ là Nguyễn Thị Đức đem xe ô tô đến nhà anh Đào Duy Đông là chủ cửa hàng kinh doanh vàng bạc, cầm cố vay 300.000.000đ, thời hạn là 30 ngày với lãi xuất 3%. Toại nói với Đông là xe hợp pháp, đăng ký chính chủ tên vợ Toại và giao toàn bộ đăng ký và các giấy tờ khác cho anh Đông( anh Đông soi giấy tờ xe trên máy soi tiền và khẳng định là giấy tờ thật). Trong thời hạn thỏa thuận, anh Đông yêu cầu Toại đến nhận xe và trả lại tiền nhưng Toại không có tiền trả nên khất nợ. Xe và các giấy tờ xe anh Đông quản lý sử dụng.
          Ngày 28-3-2003, anh Đông có đơn đề nghị cơ quan pháp luật can thiệp xử lý đối với Toại đồng thời giao xe ô tô BKS 52N-6622 cho cơ quan điều tra. Toại không có mặt tại địa phương. Ngày 14-5-2004 Toại đến cơ quan điều tra Công an tỉnh K  tự nguyện nộp 300.000.000đ trả cho anh Đông.
          Ngày 12-9-2004 VKSND tỉnh K truy tố bị cáo về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” căn cứ điểm a khoản 3 Điều 139 BLHS.

          Câu hỏi 1(1,5đ): Anh/Chị có đồng ý với quan điểm truy tố của VKS không? Vì sao?

Tình tiết bổ sung

          Ngày 22-3-2005, TAND tỉnh K mở phiên tòa xét xử đối với Lương Thế Toại

          Câu hỏi 2(1,): Anh/Chị hãy lập kế hoạch xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo?

Cách trả lời câu 1:
 Không đồng ý với quan điểm truy tố của VKSND tỉnh T vì: Năm 2000 Lương Thế Toại mua xe ô tô 4 chỗ ngồi BKS 52N-6622 của Cao Huy Dương, đứng tên trong giấy đăng ký xe là Nguyễn Thị Đức(vợ Toại) . Khi mua xe của Cao Huy Dương, đã làm thủ tục sang tên chủ sở hữu xe và đứng tên vợ là Nguyễn Thị Đức, giấy tờ sang tên chủ sở hữu do Công an TP. Hồ Chí Minh cấp. Do đó Toại không thể biết và không buộc phải biết là giấy tờ giả. Vì Công an TP. Hồ Chí Minh là cơ quan có thẩm quyền. Khi bán xe         cho anh Cường,Toại và anh Cường có thỏa thuận về việc nếu giấy tờ xe giả thì sẽ trả lại xe và trả lại tiền. Sau khi mua đi bán lại đến người thứ 3 là anh Dân làm thủ tục sang tên giấy tờ mới phát hiện là giấy tờ giả. Thực hiện đúng thỏa thuận Toại đã nhận lại xe và trả lại tiền cho người mua.
Sau khi nhận lại xe Toại và vợ đã mang xe đi thế chấp vay 300.000.000đồng, khi thế chấp anh Đông đã soi giấy tờ xe và khẳng định là giấy tờ thật nên đã cho Toại vay 300.000.000đ. Trong thời hạn thỏa thuận, anh Đông yêu cầu Toại đến nhận xe và trả lại tiền nhưng Toại không có tiền trả nên khất nợ. Xe và các giấy tờ xe anh Đông quản lý sử dụng.
 Ngày 28-3-2003, anh Đông có đơn đề nghị cơ quan pháp luật can thiệp xử lý đối với Toại đồng thời giao xe ô tô BKS 52N-6622 cho cơ quan điều tra. Toại không có mặt tại địa phương. Ngày 14-5-2004 Toại đến cơ quan điều tra Công an tỉnh K  tự nguyện nộp 300.000.000đ trả cho anh Đông.
Khi nhận được tiền thế chấp tài sản từ anh Đông, Toại đã không thực hiện đúng thỏa thuận; Do đó hành vi của Toại phạm vào tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 điều 140 BLHS.

Cách trả lời câu 2:
          Hỏi bị cáo Toại:
-         Làm rõ mối quan hệ giữa Toại và Cao Huy Dương để xác định khi mua xe ô tô Toại có biết nguồn gốc xe hay không? Việc sang tên giấy tờ xe như thế nào? Số tiền mua xe? Sau khi biết là giấy tờ xe giả có hỏi lại anh Dương hay không?
-         Sau khi bán xe cho anh Trần Quốc Cường và anh Cường bán lại cho những người khác có thỏa thuận việc sang tên chủ sở hữu không? Làm rõ số tiền còn nợ anh Cường 17.500USD?
-         Làm rõ thái độ của bị cáo khi nhận được thông tin giấy tờ xe là giả?
-         Xác định mối quan hệ của bị cáo với anh Đông?
-         Làm rõ quá trình thế chấp xe vay 300triệu đồng của anh Đông? Số tiền 300 tr dùng vào việc gì? Tại sao không trả và đến ngày 14/5/2004 mới trả?
Hỏi  bị hại anh Đông
-         Làm rõ việc Toại và vợ thế chấp xe ô tô và số tiền 300 tr?
-         Yêu cầu của bị hại Đông về bồi thường thiệt hại( nếu có)?

Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
-         Anh Cao Huy Dương để làm rõ về nguồn gốc xe ô tô bán cho Toại, quá trình làm giấy tờ xe…?
-         Anh Cường để làm rõ về quá trình mua, bán xe  và số tiền 17.500USD?
-         Anh Dân, anh Triệu về việc mua và bán xe ô tô?

Vụ Cố ý gây thương tích

 Ngày 05/01/2006 Nguyễn Đình Hải ghi số đề tại bảng đề của chị Nguyễn Thị Nguyệt Hải trúng đề. Khi thanh toán Nguyệt trừ tiền Hải nợ 30.000đồng, dẫn đến 2 bên cãi nhau; Hải dùng tay tát vào mặt Nguyệt.
Khoảng 19g30 cùng ngày, Nguyệt nói lại với Hoàng Duy Lân(chồng Nguyệt) việc bị Hải đánh. Lúc này Lâm đang ngồi uống rượu tại nhà anh Hanh. Nghe Nguyệt nói, âm mượn xe máy của anh Hanh và đem theo một con dao nhọn đi tìm Hải. Trên đường đi Lâm gặp Hoàng Duy Sỹ và Nguyễn Tiến Giáp. Lam rủ Sỹ và Giáp cùng đi nhưng không nói cho Sỹ, Giáp biết là Lâm đi đâu, làm gì.
Lúc này Hải đang ở nhà Nguyễn Đình Hà (anh trai Hải). Giáp và Sỹ đến trước gặp Hải đang nói chuyện. Lâm đến sau, tay cầm con dao nhọn xông vào nhà Hải nói “thằng Hải là thằng sỏ lá” rồi dùng dao chém Hải, Hải tránh được Lâm liền chém 01 nhát vào ấm nước trên bàn, nhát thứ hai vào cạnh ghế, nhát thứ 3 trúng vào đầu Hải.
Hải bị Lâm chém liền hô: “Đem dao ra đây”. Ngay lúc đó Hà chạy xuống bếp cầm dao chạy đuổi chém vào đầu và lưng Lâm nhiều nhát, Lâm cầm dao đâm lại vào bụng Hà, Lâm và Hà đều bị gục ngã tại chỗ. Hải dùng dao chém vào tay Sỹ làm đứt dây đeo và vỡ mặt đồng hồ.  Do Hà cũng bị thương nên không bị bắt giữ.
Hoàng Duy Lâm nằm viện điều trị 13 ngày. Kết quả giám định tỷ lệ thương tật của Lâm là 54% . Hải 5%  và tỷ lệ thương tật của  Hà là 53% .
Tại cáo trạng số 20/2007/HSST ngày 18/4/2007, VKSND tỉnh T đã truy tố Hà về tội “ Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 BLHS.

Câu hỏi 1: (1,5 điểm) Theo Anh (chị) tội danh  mà VKSND tỉnh T đó truy tố đối với Nguyễn Đỡnh Hà đúng hay sai? Giải thích tại sao?
Trả lời:


Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “ Cố ý gây thương tích” theo K3 Đ104 là sai.

- Bị cáo Nguyễn Đình Hà  phạm tội “ Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 điều 105 BLHS. Vì Hà đã có hành vi: Dùng dao chém nhiều nhát vào anh Lâm trong tình trạng anh Lâm đã cầm dao xông vào nhà Hà và nói : “ Thằng Hải( Hà là em ruột Nguyễn Đình Hải) là thằng sỏ lá” rồi dùng dao chém anh Hải, Hải tránh được, Lâm liền chém vào ấm nước trên bàn, vào ghế, nhát thứ ba trúng vào trán anh Hải. Hà đã xuống bếp lấy dao và đánh nhau với Lâm; khi hai người đánh nhau ở ngoài vườn Hà đã chém vào đầu và lưng Lâm, Lâm cũng cầm dao đâm vào bụng Hà và cả hai đều gục ngã.

Tình tiết bổ sung
Vụ án được Toà án có thẩm quyền thụ lý và thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà đã quyết định đưa vụ án ra xét xử vào hồi 7h 30 ngày 25/7/2007.
 Câu hỏi 2: (1 điểm) Anh (chị) hãy xác định tư cách tố tụng của những người cần triệu tập tham gia phiên tòa Hỡnh s sơ thẩm.


Trả lời:Những người tham gia tố tụng

 Bị cáo: Nguyễn Đình Hà

 Bị hại: Hoàng Duy Lâm

 Người làm chứng: Nguyễn Thị Nguyệt, Hoàng Duy Sỹ, Nguyễn Tiến Giáp

Câu hỏi 3: (1,5 điểm) Anh (chị) hãy lập kế hoạch xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo?

Trả lời:
- Hỏi Bị cáo và bị hại để làm rõ mối quan hệ giữa bị cáo và bị hại, làm rõ hành vi Lâm chuẩn bị dao đến nhà Hà và Hà chứng kiến việc Lâm đã dùng dao chém anh Hải, chém vào bàn, ghế nhà Hà.
- Làm rõ việc Hà lấy và dùng dao đánh nhau với Lâm; Hà chém Lâm và Lâm đâm vào bụng Hà để xác định hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của Lâm và trạng thái tinh thần bị kích động của Hà. Xác định thương tích của  Lâm, của Hà
- Hỏi những người làm chứng:
 + Hỏi chị Nguyệt để làm rõ mâu thuẫn giữa anh Hải và Nguyệt, làm rõ việc Lâm chuẩn bị dao để đi tìm Hải.

  + Hỏi Giáp và Sỹ để làm rõ việc Lâm rủ Giáp và Sỹ đi tìm Hải và chứng kiến việc Lâm đến nhà Hà dùng dao chém Hải cũng như chém vào bàn, ghế nhà Hà. Thái độ của Hà và Lâm trong khi Hà lấy dao đuổi theo Lâm.

Tình tiết bổ sung
Qua xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa đã làm rõ được nội dung vụ án như phần dữ kiện chung của đề bài. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối vói bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 điều 104 Bộ luật hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Câu hỏi 8 :(2 điểm)Anh (chị) hãy viết đoạn nhận định về tội phạm và hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo Hà trong phần “xét thấy” của bản án sơ thẩm.

Xét thấy: Lời khai của Hà và Lâm tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Anh Lâm đã thừa nhận khi nghe vợ là chị Nguyệt nói bị Hải đánh đã đem theo một con dao nhọn đi tìm Hải để đánh. Khi đến nhà Hà ( em ruột của Hải), Lâm đã tay cầm dao xông vào và chém anh Hải, Hải tránh được, Lâm liền chém một nhát vào ấm nước trên bàn, nhát thứ hai vào cạnh ghế và tiếp tục chém vào trán của Hải làm chảy máu, gây thương tích cho anh Hải  5% . Hành vi cầm dao đến nhà Hà chém anh Hải của Lâm là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, gây kích động mạnh cho Hà nên Hà đã chạy xuống bếp lấy dao đuổi chém Lâm và bị Lâm đâm trả lại dẫn đến cả hai đều gục ngã . Anh Lâm bị  thương tật là 54%, Hà là 53%. Hành vi của Hà phạm vào tội “Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, quy định tại khoản 1 điều 105 BLHS mới đúng người, đúng tội, đúng với quy định của pháp luật; mặc dù đại diện VKS vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Đ 104 BLHS. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tính chất của vụ án là nghiêm trọng  bởi  sức khỏe và tính mạng của con người là vốn quý được pháp luật bảo vệ. Trong vụ án giữa bị cáo và anh Lâm không có mâu thuẫn gì với nhau, khi thấy anh mình bị chém do không kiềm chế được nên đã có hành vi gây thương tích cho  Lâm. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và bản thân bị cáo cũng bị anh Lâm gây thương tật 53%; Áp dụng điểm p khoản 1 khoản 2 điều 46 BLHS xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng có thể giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

(Đối với tội Tham nhũng xem ở quyển hướng dẫn học và thi của Khoa nhé)


                                                               
Nội dung vụ án

Nguyễn Trung Tính sinh ngày 18 tháng 12 năm 1996 mượn đồ ảo chơi games onlines của Nguyễn Minh Thắng,  Thắng đòi nhiều lần nhưng Tính không trả. Tối ngày 11.3.2011, Thắng gọi điện thoại nhờ Vũ Minh Trí Sinh ngày 07.02.1994 rủ bạn đánh dằn mặt và lấy điện thoại của Tính.
Trí đang ngồi nhậu cùng Nguyễn Duy Khánh, Đỗ Ngọc Luận, Cao Hoài Sang, Lê Nhật Trung, Trần Hoàng Tiên tại quán nhà Khánh,Trí đã thông báo cho các bạn việc Thắng nhờ và tất cả đều đồng ý tham gia giúp Thắng. Cả nhóm đến nhà Thắng. Thắng kể sự việc, nhờ Trí và các bạn bắt Tính đến chỗ vắng, đánh dằn mặt, lấy điện thoại đưa về cho Thắng. Thắng sẽ giữ điện thoại để bắt Tính đưa tiền chuộc. Tiền có được Thắng sẽ mời cả bọn ăn uống.
Thắng dẫn cả nhóm đến khu vực ngã tư Đường 5 tìm Tính. Trên đường đi, thấy Tính đang ngồi sau xe đạp điện bạn chở, Thắng bí mật chỉ cho các bạn biết, rồi lánh mặt về nhà.
Trí và đồng bọn dùng xe máy đuổi theo, ép xe buộc Tính dừng lại. Trí bảo Tiên túm cổ áo Tính, buộc lên ngồi giữa sau xe máy cùng Tiên do Trí điều khiển chở đến bãi đất trống trong hẻm đường 30/4, phường 13. Tại đây, Trí tra hỏi, Luận dùng tay đánh, bắt Tính hứa trả tiền cho Thắng theo giá trị bộ đồ chơi games. Trong lúc Trí và đồng bọn tra khảo Tính, Thắng điện thoại cho Tiên nhắc phải lấy điện thoại của Tính. Tiên lấy điện thoại di động Nokia 1202 trị giá 300.000 đồng của Tính, tháo SIM vứt đi và đưa điện thoại cho Trí cất giữ. Sau khoảng 40 phút đồng bọn chở Tính về gần nhà Tiên, thả Tính tại khu vực ngã ba, rồi cả bọn giải tán.
Tại bản cáo trạng số 152/VKS-KSĐT ngày 25.7.2011, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố các bị cáo Nguyễn Minh Thắng, Vũ Minh Trí, Trần Hoàng Tiên, Đỗ Ngọc Luận về  tội:  “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự.

Câu hỏi 1: Anh (chị) hãy nhận xét quan điểm truy tố của Viện kiểm sát TP. V?

Tình tiết bổ sung
Trong quá trình cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán Nguyễn Hoài Nam cho rằng cơ quan điều tra đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì trong các bản lấy lời khai đối với bị can Vũ Minh Trí chỉ duy nhất 01 lần có luật sư tham gia và không có mặt của đại diện gia đình bị can và bỏ lọt tội phạm nên đã ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Câu hỏi 2:  Anh (chị) có đồng ý với quan điểm của Thẩm phán Nguyễn Hoài Nam hay không? Giải thích tại sao?
 Tình tiết bổ sung

Quan điểm của Thẩm phán Nguyễn Hoài Nam đã được thống nhất, để chuẩn bị xét xử.
Câu hỏi 3 : Anh (chị) hãy lập kế hoạch xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo?
Tình tiết bổ sung

Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa HSST, luật sư Nguyễn Duy Phương bào chữa cho bị cáo Vũ Minh Trí vắng mặt không có lý do, bị cáo Vũ Minh Trí đồng ý không cần có luật sư bào chữa, bị cáo tự bào chữa nhưng ông Vũ Minh Nguyên, đại diện hợp pháp của bị cáo đề nghị hoãn phiên tòa để  mời luật sư khác bào chữa cho bị cáo.

Câu hỏi 4: Theo anh (chị) Hội đồng xét xử có chấp nhận yêu cầu của ông Vũ Minh Nguyên hay không? Tại sao?
Tình tiết bổ sung

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm bị hại Nguyễn Trung Tính cho rằng: Ngoài việc các bị cáo lấy điện thoại, các bị cáo còn nêu điều kiện mỗi ngày Tính phải giao cho các bị cáo số tiền 50.000đ để các bị cáo hút ma túy.

Câu hỏi 5: Giả sử lời khai của của Nguyễn Trung Tính là đúng sự thật, theo anh (chị) có ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hay không? Tại sao?

Tình tiết bổ sung


Trong phần nghị án Hội thẩm Vũ Minh Đan cho rằng các bị cáo không có mục đích chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của Nguyễn Trung Tính mà chỉ có mục đích buộc Nguyễn Trung Tính phải trả tiền cho bị cáo Thắng theo giá trị bộ đồ chơi games nên không đồng ý biểu quyết về tội “Cướp tài sản”.

Câu hỏi 6:Là Thẩm phán chủ  tọa phiên tòa anh (chị) hãy xử lý tình huống trên?

Tình tiết bổ sung

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Vũ Minh Trí bị xử phạt 15tháng tù nên đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, ông Vũ Minh Nguyên (cha của Vũ Minh Trí) kháng cáo kêu oan cho bị cáo.
Câu hỏi 7: Anh (chị) hãy nêu quan điểm xét xử của cấp phúc thẩm đối với các nội dung kháng cáo trên?



Nội dung vụ án

Chiều ngày 26.8.2011, tại đám giỗ nhà ông Nguyễn Văn Khẩn ở thôn Tân Hiệp, xã B, huyện Đ, thấy ông Tô Tuấn Kiệt rút tiền đưa cho bà Nguyễn Thị Thu Hiền, và cất xấp tiền còn lại trong cốp xe môtô Wave, Nguyễn Văn Nhân nảy sinh ý định trộm cắp. Khoảng 18h00’ cùng ngày, Nhân đến chỗ xe môtô của ông Kiệt, dùng tay bẻ cong yên xe, rồi thò tay vào lấy xấp tiền. Cầm xấp tiền trộm được ra ngoài đường, Nhân gặp Nguyễn Hoàng Ngân, Huỳnh Văn Đại. Ngân, Vũ hỏi tiền ở đâu mà có và Nhân kể lại sự việc, hứa cho Ngân, Đại cùng xài số tiền trộm được. Sau khi cất giấu số tiền trên tại hàng rào gần đó, cả ba quay lại đám giỗ uống rượu. Lát sau, cả ba ra về, lấy số tiền đã cất giấu và đến tiệm Internet Đông Nghi chơi games. Tại đây, Nhân đếm số tiền trộm được là 7.800.000 đồng. Cơ quan Công an đã bắt giữ bị cáo, thu hồi và trao trả cho người bị hại số tiền 7.800.000 đồng. 
Người bị hại khai số tiền bị mất là 24.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 71/KSĐT-KT ngày 07.11.2011, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ. truy tố Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Hoàng Ngân, Huỳnh Văn Đại về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Câu hỏi 1: Anh (chị) hãy nhận xét về quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ?

Tình tiết bổ sung
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án; Thẩm phán Nguyễn Hồng Khánh cho rằng cơ quan công an thu hồi trả cho người bị hại và số tiền người bị hại khai mất không giống nhau nên đã mời người bị hại ông Ngô Tuấn Kiệt lên trụ sở Tòa án lấy lời khai.
Câu hỏi 2: Theo anh (chị) việc làm của Thẩm phán Nguyễn Hoàng Khánh  đúng hay sai? Tại sao?
Tình tiết bổ sung
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa HSST người bị hại ông Ngô Tuấn Kiệt vắng mặt vì phải điều trị do tai nạn giao thông nên đã ủy quyền cho ông Ngô Tuấn Tú ( là em ruột) tham gia phiên tòa. Luật sư Hoàng Huy bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa vì theo luật sư thì lời khai của người bị hại và các bị cáo không thống nhất về số tiền do đó cần thiết phải có mặt người bị hại.
Câu hỏi3: Là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa anh (chị) hãy xử lý tình huống trên?

Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị HĐXX yêu cầu điều tra bổ sung để VKSND huyện Đ rút quyết định truy tố hai bị cáo Nguyễn Hoàng Ngân và Huỳnh Văn Đại về tội “Trộm cắp tài sản” và xác định có tội phạm khác.
Câu hỏi 4: Theo anh (chị) Hội đồng xét xử có chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát hay không ? giải thích tại sao?

Tình tiết bổ sung

Trong phần nghị án do không thống nhất được quan điểm về tội danh của các bị cáo nên Hội thẩm nhân dân Vũ Hồng Nhung đã  không tham gia biểu quyết.

Câu hỏi 5: Anh (chị) hãy nêu quan điểm giải quyết tình huống trên?

Tình tiết bổ sung

Tại phiên tòa xác định Nguyễn Văn Nhân phạm tội “Trộm cắp tài sản” như dữ kiện chung của đề bài, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và phiên tòa hình sự sơ thẩm thật thà khai báo, ăn năn hối cải, người bị hại đã nhận số tiền 7.800.000 đồng.
Câu hỏi 6: Anh (chị) hãy viết phần nhận định về tội danh và hình phạt trong phần xét thấy của bản án hình sự sơ thẩm?

Tình tiết bổ sung
 Sau khi xét xử sơ thẩm ông Ngô Tuấn Tú kháng cáo toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm với lý do: Cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm đối với Nguyễn Hoàng Ngân và Huỳnh Văn Đại, số tiền bị cáo chiếm đoạt của anh ông là 24.500.000 đồng mà không phải 7.800.000 đồng như cấp sơ thẩm quyết định.
Câu hỏi 7: Theo anh (chị) Hội đồng xét xử có chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ngô Tuấn Tú hay không? Quan điểm xét xử của anh (chị) tại phiên tòa hình sự phúc thẩm?

        BỘ TƯ PHÁP                                                            CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 HỌC VIÊN TƯ PHÁP                                                              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    -----------------                                                          ----------------------------------------

PHIẾU CHẤM THI
MÔN KỸ NĂNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ -HỌC PHẦN 2
LỚP THẨM PHÁN KHOÁ 13 ĐỢT LỚP D,E,F.



Câu hỏi
Nội dung
Điểm
Câu 1
1.5 đ
-     VKSND huyện Đ truy tố các bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo khỏan 1 điều 133 BLHS là có căn cứ,  nhưng chưa đầy đủ.
-     Vì Thắng và đồng bọn còn có hành vi bắt giữ Tính trong thời gian 40 phút tại nơi hoang vắng là bãi đất trống để thực hiện hành vi cướp tài sản của Tính; hành vi này của các bị cáo đã phạm vào khoản 1 điều 123 BLHS về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”

1.0đ

0,5đ
Câu 2
1,5 đ
-      Không đồng ý với quan điểm của Thẩm Phán Nguyễn Hoài Nam vì: Bị cáo Vũ Minh Trí sinh ngày 7/2/1994, tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ngày 11/3/2011, bị cáo đã 17 tuổi 1 tháng 4 ngày. Không bắt buộc phải có luật sư hay đại diện gia đình bị can. Do đó không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự, căn cứ khoản 2 Điều 306 BLTTHS.
-      Đồng ý với quan điểm của Thẩm phán căn cứ K1,Đ 179 BLTTHS quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với trường hợp bỏ lọt tội phạm vì: Các bị cáo đã có hành vi bắt giữ Tính trong thời gian 40 phút và đưa ra nơi bãi đất trống tra khảo, đánh Tính sau đó thực hiện hành vi cướp tài sản. VKS không truy tố các bị cáo về hành vi bắt giữ người trái pháp luật là bỏ lọt tội phạm vì hành vi này gắn liền với hành vi cướp tài sn do đó cần thiết phải truy tố xét xử trong cùng 1 vụ án.


1.0đ



0,5đ
Câu 3
Hỏi các bị cáo Thắng, Trí, Tiên, Luận để làm rõ:
-         Mối quan hệ giữa bị cáo Thắng, Trí, Tiên, Luận với bị hại Tính và giữa các bị cáo trên;
-         Việc bị cáo Thắng nhờ các bị cáo thực hiện hành vi bắt giữ bị hại Tính và cướp điện thoại di động của Tính;
-         Các bị cáo được Thắng nhờ và đồng ý tham gia giúp Thắng như thế nào?
-         Thời gian bắt giữ Tính tại bãi đất trống trong thời gian 40 phút, các bị cáo đã làm gì Tính?
-         Thái độ của người bị hại Tính?
Hỏi bị hại Tính
     -    Vmối quan hệ với các bị cáo:
-         Về việc Tính mượn đồ chơi game của Thắng, lý do không trả?
-         Khi các bị cáo thực hiện việc bắt đưa lên xe chở đến nơi vắng. Thái độ của người bị hại như thế nào? Các bị cáo đe dọa, tra khảo, đánh như thế nào?
Hỏi đại diện gia đình bị hại để làm rõ việc có biết việc Tính mượn đồ chơi game của Thắng hay không; vấn đề bồi thường thiệt hại?
Hỏi người làm chứng làm rõ việc khi Tính bị Trí, Tiên bắt đưa lên xe chở đi như thế nào?
1.0đ






0,5đ



0,25đ

0,25đ
Câu 4
1.0đ
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Vũ Minh Nguyên vì:
-         Căn cứ theo K2Đ57 BLTTHS, Mục II, phần 2, NQ số 03/2004 ngày 2/10/2004 thì ông Minh Nguyên có quyền đề nghị hoãn phiên tòa để mời luật sư khác bào chữa cho bị cáo vì bị cáo Vũ Minh Trí là người chưa thành niên.
1.0đ
Câu 5
1,0đ
Lời khai của Nguyễn Trung Tính là đúng sự thật thì không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án vì: hành vi  cướp tài sản của các bị cáo đối với người bị hại, tội phạm đã hoàn thành. Trong trường hợp này HĐXX có thể ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án căn cứ khoản 1 điều 104 BLTTHS.
1.0đ
Câu 6
1,5đ
Trường hợp trong phần Nghị án HTND Vũ Minh Đan không đồng ý biểu quyết về tội “ Cướp tài sản”, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần giải thích pháp luật cho HTND, nếu HTND không đồng ý thì quyết định quay trở lại phần xét hỏi để làm rõ những vấn đề HTND chưa đồng ý về các tình tiết cấu thành tội phạm. Sau đó tiếp tục tranh luận, nghị án theo thủ tục chung.
1,5đ
Câu 7
1,5đ
- Cấp Phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Vũ Minh Trí và đơn kháng cáo của ông Vũ Minh Nguyên vì cả 2 đơn đều được gửi trong hạn luật định;
-  Cấp Phúc thẩm xem xét đơn kháng cáo của Vũ Minh Trí, so sánh với hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo khác; việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ( nếu có) của bị cáo để quyết định có chấp nhận hay không.
-   Đối với kháng cáo kêu oan của ông Vũ Minh Nguyên không được chấp nhận vì các bị cáo đã có hành vi đe dọa, đánh đập người bị hại để lấy điện thoại di động và hành vi bắt, giữ người trái pháp luật trong thời gian 40 phút.  Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “ Cướp tài sản” theo  k1 Đ133 và tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” k1 Đ 123 BLHS.
0,5đ

0,5đ


0,5đ















        BỘ TƯ PHÁP                                                            CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 HỌC VIÊN TƯ PHÁP                                                              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    -----------------                                                          ----------------------------------------

PHIẾU CHẤM THI
MÔN KỸ NĂNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ -HỌC PHẦN 2
LỚP THẨM PHÁN KHOÁ 13 ĐỢT LỚP A,B,C.




Câu hỏi
Nội dung
Điểm
Câu 1
1,5 đ
- Quyết định truy tố của VKSND huyện Đ  về tội “Trộm cắp tài sản” của bị can Nguyễn Văn Nhân là chính xác vì:
Nguyễn Văn Nhân đã có hành vi lén lút bẻ cong cốp xe của ông Ngô Tuấn Kiệt lấy 7.800.000đồng phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” được quy định tại K 1 Đ 138 BLHS.
- Quyết định truy tố Đối với Nguyễn Hoành Ngân và Huỳnh Văn Đại là không chính xác vì: Các bị can không cùng  thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với Nguyễn Văn Nhân, do đó không phạm tội “Trộm cắp tài sản” như truy tố của VKS.
0,75đ



0,75đ
Câu 2
1.0đ
Việc lấy lời khai ông Ngô Tuấn Kiệt của Thẩm phán Nguyễn Hoàng Khánh là không đúng vì: Căn cứ điều 39 BLTTHS thì Thẩm phán không có nhiệm vụ lấy lời khai người bị hại. Việc bị hại khai số tiền bị mất không giống số tiền cơ quan điều tra đã  thu hồi trả cho người bị hại sẽ được làm rõ tại phiên tòa HSST
1.0đ
Câu 3
1.0đ
Không chấp nhận đề nghị của Luật sư Hoàng Huy vì: Việc ủy quyền của ông Ngô Tuấn Kiệt cho ông Ngô Tuấn Tú tham gia phiên tòa là đúng quy định của pháp luật. Số tiền không thống nhất sẽ được làm rõ trong phần xét hỏi tại phiên tòa trên cơ sở các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án.
1.0đ
Câu 4
2.0đ
- Việc rút quyết định truy tố của KSV đối với 2 bị cáo Nguyễn Hoàng Ngân và Huỳnh Văn Đại vẫn được HĐXX tiếp tục xét xử, căn cứ Đ 221 BLTTHS, do đó không chấp nhận đề nghị của KSV về nội dung này.
- Đối với trường hợp cho rằng có tội phạm khác, nếu thấy có sự liên quan đến việc xét xử trong cùng vụ án thì chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung; trường hợp không nhất thiết phải xét xử trong cùng một vụ án thì HĐXX có quyền khởi tố vụ án căn cứ k1 Đ104 BLTTHS mà không cần thiết yêu cầu điều tra bổ sung.
1.0đ

1.0đ
Câu 5
1,0đ
HTND Vũ Hồng Nhung không tham gia biểu quyết trong phần nghị án do không thống nhất được quan điểm về tội danh của các bị cáo thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần giải thích pháp luật cho Hội thẩm nhân dân, nếu Hội thẩm nhân dân không đồng ý thì quyết định quay trở lại phần xét hỏi để làm rõ những vấn đề HTND chưa đồng ý về các tình tiết cấu thành tội phạm, sau đó tiếp tục tranh luận, nghị án theo thủ tục chung.
1.0đ
Câu 6
2.0đ
- Hành vi lén lút bẻ cong yên xe lấy số tiền 7.800.000đồng của ông Ngô Tuấn Kiệt của bị cáo Nguyễn Văn Nhân phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại K1Đ 138 BLHS. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hình sự sơ thẩm bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, người bị hại đã nhận số tiền 7.800.000 đồng.
- Áp dụng các điểm g,h,p K1 Đ 46 BLHS xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt.
1.0đ



1.0đ
Câu 7
1.5đ
HĐXX không chấp nhận yêu cầu của ông Ngô Tuấn Tú vì: Theo Nghị quyết số 05/NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 của TANDTC quy định : “Trong trường hợp người bị hại ủy quyền cho người khác, người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự”, do đó chỉ được kháng cáo liên quan đến việc bồi thường thiệt hại căn cứ điểm g K 2 Đ 52 BLTTHS.
1.5đ





BỘ TƯ PHÁP                                                            CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 HỌC VIÊN TƯ PHÁP                                                              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
                                                                                                             ------------------------

PHIẾU CHẤM THI
MÔN KỸ NĂNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ -HỌC PHẦN 2
LỚP THẨM PHÁN KHOÁ 13 ĐỢT LỚP A,B,C.

Câu hỏi
Nội dung
Điểm
Câu 1
2 đ
- Quyết định truy tố của VKSND huyện Đ  về tội “Trộm cắp tài sản” của bị can Nguyễn Văn Nhân là chính xác vì:
Nguyễn Văn Nhân đã có hành vi lén lút bẻ cong cốp xe của ông Ngô Tuấn Kiệt lấy 7.800.000đồng phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” được quy định tại K 1 Đ 138 BLHS.
- Quyết định truy tố Đối với Nguyễn Hoành Ngân và Huỳnh Văn Đại là không chính xác vì: Các bị can không cùng  thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với Nguyễn Văn Nhân, do đó không phạm tội “Trộm cắp tài sản” như truy tố của VKS.
1.0đ


1.0đ
Câu 2
1.0đ
Việc lấy lời khai ông Ngô Tuấn Kiệt của Thẩm phán Nguyễn Hoàng Khánh là không đúng vì: Căn cứ điều 39 BLTTHS thì Thẩm phán không có nhiệm vụ lấy lời khai người bị hại. Việc bị hại khai số tiền bị mất không giống số tiền cơ quan điều tra đã  thu hồi trả cho người bị hại sẽ được làm rõ tại phiên tòa HSST
1.0đ
Câu 3
1.5đ
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không chấp nhận đề nghị của Luật sư Hoàng Huy vì: Việc ủy quyền của ông Ngô Tuấn Kiệt cho ông Ngô Tuấn Tú tham gia phiên tòa là đúng quy định của pháp luật. Số tiền không thống nhất sẽ được làm rõ trong phần xét hỏi tại phiên tòa trên cơ sở các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án.
1.5đ
Câu 4
1.0đ
- HĐXX không chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát vì: Nguyễn Hoàng Ngân và Huỳnh Văn Đại không cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản  với bị cáo Nguyễn Văn Nhân ; do đó HĐXX tiếp tục xét xử vụ án.
1.0đ
Câu 5
1,0đ
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần giải thích pháp luật cho Hội thẩm nhân dân Vũ Hồng Nhung, nếu Hội thẩm nhân dân không đồng ý thìHĐXX có thể quyết định quay trở lại phần xét hỏi để làm rõ những vấn đề HTND chưa đồng ý về các tình tiết cấu thành tội phạm, sau đó tiếp tục tranh luận, nghị án theo thủ tục chung.
1.0đ
Câu 6
2.0đ
- Hành vi lén lút bẻ cong yên xe lấy số tiền 7.800.000đồng của ông Ngô Tuấn Kiệt của bị cáo Nguyễn Văn Nhân phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại K1Đ 138 BLHS. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hình sự sơ thẩm bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, người bị hại đã nhận số tiền 7.800.000 đồng.
- Áp dụng khoản 1 điều 138 các điểm g,h,p K1 Đ 46 BLHS xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt.
- Đối với Nguyễn Hoàng Ngân và Huỳnh Văn Đại không thực hiện hành vi trộm cắp số tiền của ông Ngô Tuấn Kiệt cùng với Nguyễn Văn Nhân do đó Ngân và Đại không phạm tội trộm cắp tài sản.
1.0đ


0.5đ
0.5đ
Câu 7
1.5đ
- HĐXX chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Tuấn Tú vì trong hạn luật định và căn cứ điều 231 BLTTHS ;
- HĐXX chỉ chấp nhận xem xét giải quyết phúc thẩm phần kháng cáo về yêu cầu đòi bồi thường số tiền của ông Ngô Tuấn Tú, không chấp nhận kháng cáo yêu về phần hình sự của bản án sơ thẩm căn cứ điểm g K 2 Đ 52 BLTTHS và Nghị quyết số 05/NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 của TANDTC :
0,75đ
0,75đ


Học viện Tư pháp
Môn thi: Kỹ năng xét xử vụ án hình sự
Đề thi học phần: Chuyờn đề
Thời gian: 150 phút


Nguyễn Anh Tài nghiện ma túy nặng. Ngày 05.4.2011, Tài mua heroin ở Thành phố Hồ Chí Minh, rồi đón xe xuống tỉnh B, thuê phòng tại nhà nghỉ Thanh Phương thuộc ấp P, xã M, huyện T, tỉnh B. Tại đây, Tài phân heroin thành 15 tép nhỏ để sử dụng. 21h00’ cùng ngày, Tài bị Công an huyện T. kết hợp cùng Công an xã M. bắt quả tang đang cất giấu 10 tép héroin trong người.
Bản giám định pháp y số 38/GĐ ngày 06.4.2011 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. kết luận chất bột màu trắng thu giữ từ bị can Tài chứa 0,2603g heroin.
Tại bản cáo trạng số 72/KSĐT-TA ngày 20.6.2011, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T. truy tố Nguyễn Anh Tài về tội : “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy” theo  khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Vụ án được chuyển sang Tòa án để xét xử theo đúng thẩm quyền.
Là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án

Câu hỏi 1: Anh (chị) hãy nhận xét quan điểm truy tố của Viện kiểm sát huyện T?
Câu hỏi 2: Anh ( chị ) hãy lập kế hoạch xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo theo quan điểm về tội danh  anh (chị) xác định ở câu hỏi 1?

Tình tiết bổ sung

Ngày 25 tháng 7 năm 2011 TAND huyện T đưa vụ án ra xét xử. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa bị cáo Nguyễn Anh Tài khai nhận: Do bị nghiện nặng chất ma túy nên Tài đã nhiều lần mua heroin từ TP. HCM về nhà phân nhỏ thành từng tép để bán lấy tiền sử dụng ma túy nên đã bị Công an phường Hiệp Phú, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đưa đi cai nghiện tập trung từ tháng 5.2005 đến 31.12.2008.
Ngày 06.12.2010, bị Công an phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định số 222/QĐ-UB xử phạt hành chính và áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường trong thời gian 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa đúng với tài liệu đã được thu thập tại cơ quan điều tra.
Thẩm phán Nguyễn Thanh Bằng cho rằng bị cáo đã nhiều lần mua heroin để bán lấy tiền hút ma túy nên đã thông báo tạm dừng phiên tòa để HĐXX hội ý. Tại phòng Nghị án Thẩm phán nêu quan điểm: Căn cứ lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án là đúng; do đó căn cứ khoản 2 Điều 199 BLTTHS yêu cầu điều tra bổ sung để VKSND huyện T truy tố bị cáo ở điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS mới đúng.

Câu hỏi 3: Anh (chị) có đồng ý với quan điểm của Thẩm phán Nguyễn Thanh Bằng không? Vì sao?
Tình tiết bổ sung
Trong phần xét hỏi tại phiên tòa, hội thẩm nhân dân Nguyễn Hoàng Anh do sức khỏe không đảm bảo nên không thể tiếp tục tham gia phiên tòa được.

Câu hỏi 4: Là chủ tọa phiên tòa Anh (chị) hãy xử lý tình huống trên?
Tình tiết bổ sung

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 81/2011/HSST ngày 25.7.2011, Tòa án nhân dân huyện T quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh Tài phạm tội như quan điểm của anh (chị) ở câu hỏi 1, áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 03 (Ba) năm tù, tính từ ngày bắt tạm giữ 06.4.2011.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 29.7.2011, bị cáo Nguyễn Anh Tài làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do  bản thân đang nhiễm HIV/AIDS.

Câu hỏi 5: Anh (chị) hãy viết phần xét thấy của bản án hình sự phúc thẩm về yêu cầu kháng cáo của bị cáo?
Tình tiết bổ sung

Ngày 26 tháng 9 năm 2011 TAND tỉnh B mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án đối với bị cáo Nguyễn Anh Tài. Tại phần Thủ tục bắt đầu phiên tòa bị cáo cho rằng mình không nhận được thông báo kháng cáo, đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa để bị cáo mời Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm.

Câu hỏi 6: Theo anh (chị) HĐXX phúc thẩm có chấp nhận yêu cầu của bị cáo hay không? Tại sao?

        BỘ TƯ PHÁP                                                            CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 HỌC VIÊN TƯ PHÁP                                                              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    -----------------                                                          ----------------------------------------

PHIẾU CHẤM THI
MÔN KỸ NĂNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ -HỌC PHẦN 3
LỚP THẨM PHÁN KHOÁ 13 (thi lại)

Câu hỏi
Nội dung
Điểm
Câu 1
1.5 đ
-     VKSND huyện Đ truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy” theo  khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng về điều khoản nhưng chưa chính xác về tội danh.  Tài đã có hành vi mua heroin rồi phân  thành 15 tép nhỏ để sử dụng. 21h00’ cùng ngày, Tài bị Công an huyện T. kết hợp cùng Công an xã M. bắt quả tang đang cất giấu 10 tép héroin trong người.
Hành vi của  bị cáo phạm vào tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS.
2.0đ


Câu 2
1.5 đ
Hỏi các bị cáo Tài để làm rõ:
- Hỏi bị cáo Tài để làm rõ nguồn gốc, số lượng ma túy cất giấu trong người khi bị bắt quả tang Số lần mua ma túy và phân ra để dùng và bị cáo có bán cho những ai? Mối quan hệ giữa bị cáo và người bán ma túy; giữa bị cáo và người mua ma túy (nếu có)
- Số tiền chênh lệch khi mua ma túy về hút và phân nhỏ ra bán?
2.0đ




Câu 3
2.0đ
- Không đồng ý với quan điểm của Thẩm phán Nguyễn Thanh Bằng
  • Vì: Hành vi bị xử phạt hành chính và đưa đi cai nghiện ma túy và hành vi phạm tội lần này bị bắt quả tang không phải là trường hợp phạm tội nhiều lần như quan điểm của Thẩm phán.
1.5đ



Câu 4
1.0đ
-         Trường hợp nếu có HTND dự khuyết tham gia phiên toà xét xử thì phiên tòa được tiếp tục. Trường hợp không có HTND dự khuyết thì Hội đồng xét xử cần phải hoãn phiên tòa để mời HTND khác tham gia và vụ án phải được xét xử lại từ đầu; căn cứ Đ 186 BLTTHS.
1.0đ
Câu 5
2.
Xét nội dung và yêu cầu kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
Bị cáo Nguyễn Anh Tài đã có hành vi tàng trữ 0,2603g héroin để sử dụng, bị phát hiện và bắt quả tang tại nhà nghỉ Thanh Phương thuộc ấp P, xã M, huyện T, tỉnh  B vào hồi 21h00’ ngày 05.4.2011.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” qui định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 03 (Ba) năm tù là có căn cứ xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo. Những lý do xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đã được cấp sơ thẩm xem xét khi lượng hình. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được chứng cứ nào mới. Việc bị cáo khai bị nhiễm HIV/AIDS nhưng không có giấy tờ chứng minh nên không được xem là tình tiết giảm nhẹ qui định tại Điều 46 Bộ luật hình sự; do đó không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; nên giữ nguyên  mức hình phạt án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp pháp luật.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.
2.0đ
Câu 6
1.
Theo mục 6.2 Nghị quyết số 05/2005 của HĐTP-TANDTC thì Tòa án cấp sơ thẩm không phải thông báo kháng cáo cho bị cáo. Tuy nhiên trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa HĐXX phúc thẩm chấp nhận yêu cầu hoãn phiên tòa để bị cáo mời  mời Luật sư bào chữa theo đúng quy định của pháp luật .

1,5đ



Lưu ý:
Khi định tội danh đối với bị hại mà có ngày tháng năm sinh là người chưa thành niên thì phải lưu ý về tội danh áp dụng trong trường hợp với trẻ em; VD tội Giết người ở điểm c, khoản 1. Hoặc trong trường hợp áp dụng tình tiết tăng nặng áp dụng đối với người bị hại là trẻ em ;VD Tội Vô ý làm chết người ở khoản 1 Đ 98 và áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Đ48 BLHS, hoặc tội phạm áp dụng đối với trường hợp là trẻ em. VD: Hiếp dâm trẻ em Đ 112.(Lưu ý về chủ thể)

Đối với nhóm tội xâm phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe ; khi định tội danh đối với tội Cố ý cần xác định ý thức chủ quan của bị cáo là cố ý hoặc mong muốn,thực hiện một cách quyết liệt nhằm  tước đi sinh mạng của người bị hại hoặc nhằm che dấu một tội phạm khác – thì phạm tội Giết người. Trường hợp chỉ muốn gây thương tích,  đánh cho biết mặt…mà không thể hiện như những nội dung nêu trên ở tội Giết người thì phạm tội Cố ý gây thương tích.

Trường hợp trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì dấu hiệu kích động mạnh về tinh thần phải được đánh giá một cách khách quan xem mức độ hành vi của người bị hại phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng dẫn đến kích động mạnh đến mức không thể chịu đựng, kiềm chế được và hành vi trái pháp luật và kích động của người bị hại là ngay tức khắc và được hiểu như giọt nước đã đến lúc tràn ly.

Trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì phải so sánh tương quan lực lượng giữa bị cáo và bị hại, lẽ ra chưa cần thiết đến mức phải hành động nhưng bị cáo đã nghĩ và tưởng nếu như không hành động mình sẽ bị đe dọa đến tính mạng hoặc sức khỏe…

Lưu ý về tỷ lệ thương tật để áp dụng khoản trong điều luật.

Đối với tội xâm phạm sở hữu: Lưu ý về giá trị tài sản.

Đối với hành vi: Tội Cướp tài sản; dấu hiệu đặc trưng là bị cáo phải dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được và mục đích là chiếm đoạt tài sản. Hành vi khác có thể được hiểu như: Dùng thuốc ngủ cho vào thức ăn, uống làm cho bị hại ngủ thiếp đi để thực hiện hành vi phạm tội. hoặc trói buộc, bịt miệng người bị hại… làm cho người bị hại không thể chống cự được.

Đối với tội Trộm cắp: Dấu hiệu đặc trưng là lén lút đối với chủ sở  hữu nhằm chiếm đoạt tài sản.

Đối với một số tội có tình tiết “Hành hung để tẩu thoát” phải được phân biệt trong trường hợp chuyển hóa tội danh từ tội “Trộm cắp,  Cướp giật, Công nhiên chiếm đoạt tài sản” sang tội “Cướp tài sản”. Đây là những trường hợp dễ bị nhầm lẫn trong định tội danh.

VD: Bị cáo mục đích là lén lút chiếm đoạt tài sản nhưng khi lấy được tài sản thì bị phát hiện bắt giữ và bằng việc chống trả quyết liệt người bắt giữ (như dùng dao, hung khí nguy hiển khác) để lấy bằng được tài sản thì lúc này đã chuyển hóa từ tội “Trộm cắp tài sản” sang tội “Cướp tài sản” nhưng nếu chỉ chống trả quyết liệt như trên nhưng chỉ nhằm để thoát thân thì áp dụng tình tiết hành hung để tẩu thoát áp dụng điểm đ khoản 2 Đ 138 BLHS.

Đối với tội Tham nhũng: Lưu ý chủ thể phải là người có chức vụ, quyền hạn được giao. (Tuy nhiên lưu ý trường hợp có đồng phạm là người chưa thành niên và người chưa thành niên thì không thể có chức vụ quyền hạn – Trường hợp này ít nhưng cũng cần lưu ý). Trong nhóm tội này lưu ý phạm tội có tổ chức và đồng phạm giản đơn; nếu có tổ chức là phải được cấu kết chặt chẽ, bàn bạc, phân công cụ thể vai trò của tàng người trong quá trình hành động, dự kiến những trường hợp nếu bị phát hiện…

Đối với một số tội khác có đề thi ở trên em xem. Vì không có thời gian nên Cô chuẩn bị thêm từ phần lưu ý trong thời gian rất ít nên em xem và có gì chưa rõ thì điện thoại cho Cô trao đổi thêm.

 Khi đi thi trong tất cả các môn nhớ không được mang vào phòng thi tài liệu mà không phải là văn bản pháp luật, nhất là đề thi và đáp án, vở ghi trong khi học, điện thoại di động…lần này cán bộ coi thi và thanh tra thi làm rất nghiêm túc nên phải cẩn thận, không được để xảy ra trường hợp bị lập biên bản. Sai lầm trầm trọng là mang đề thi và đáp án của những lần thi trước và điện thoại di động vào phòng thi, những thứ đó đã làm cho em bị mất tinh thần rất nhiều. Em chỉ cần bình tĩnh đọc kỹ đề thi 2-3 lần, gạch chân những chỗ quan trọng, làm ra nháp để đưa ra định hướng, khi xác định đúng mới làm bài, tránh tẩy xóa, viết lại, lưu ý những lỗi mang tính chất đánh dấu bài mà Cô đã nhắc, Cô tin khi làm đúng những điều Cô dặn em sẽ đủ tự tin để làm bài tốt .Chúc em thi đạt kết quả cao.



Tags:

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn

Nội quy! Đóng lại Cám ơn đã đọc bài viết!
- Từ ngày 14/08/2011 để tránh Spam do vậy Comment nặc danh xẽ bị khóa
- Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu để mọi người dễ đọc hơn!
- Mọi thắc mắc, gợi ý hoặc bình luận xin chia sẻ bên dưới hoặc Gửi thư hay Báo lỗi
- Các bạn có thể mã hóa Code TẠI ĐÂY
Thank You!
More →
Chữ đậm Chữ nghiêng Chữ nghiêng 2 Chèn Link Chèn Link Mã hóa code Help ?Nhấn vào biểu tượng hoặc kiểu chữ hoặc chèn link sau đó nhấn nút Chọn rồi copy (Ctrl + C) để paste (Ctrl + V) vào khung viết bình luận. Mã hóa code nếu bạn muốn đưa code vào bình luận.

Chọn Xóa

nhãn totunghinhsu

THÔNG TIN TỐ TỤNG HÌNH SỰ