Đang tải dữ liệu...
Chuyên đề 7: MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT KINH NGHIỆM VỀ TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ QUA CÔNG TÁC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM - Thẩm Phán 13 Lớp B (thamphan13) /* Menu Horizontal top*/

Tạo banner chạy dọc hai bên

hinhlop1

hinhlop


Download Hình

Tiện ích bài đăng có ảnh thumbnail chạy ngang

Chuyên đề 7: MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT KINH NGHIỆM VỀ TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ QUA CÔNG TÁC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM

bookmark and share |

Bài đăng ngày:29 thg 5, 2013


I. KHÁI QUÁT VỀ TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHÚ Ý VỀ NHỮNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
          1. Khái quát chung về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
          1.1. Khái niệm:
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân qua việc vi phạm qui định của Nhà nước trong quản lý kinh tế.
1.2. Các đặc trưng chung:
- Khách thể của tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xâm hại chế độ quản lý, điều hành nền kinh tế Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xâm phạm quyền và lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thể hiện ở các hành vi cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước bằng nhiều loại hành vi khác nhau.
Đa số các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có cấu thành tội phạm hình thức. Một số tội, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ như Điều 165 Bộ luật hình sự (BLHS).
- Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Người thực hiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có thể là bất kỳ ai đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Mặt chủ quan của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp.
1.3. Các tội phạm cụ thể:
1.3.1. Tội buôn lậu (Điều 153 BLHS)
- Dấu hiệu pháp lý: Khách thể của tội phạm này là sự xâm phạm chính sách quản lý nội thương và ngoại thương. Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:
+ Hành vi khách quan là hành vi buôn bán hàng hoá qua biên giới quốc gia trái phép.
+ Địa điểm phạm tội qua biên giới quốc gia là dấu hiệu bắt buộc.
+ Đối tượng tác động của tội phạm thuộc 3 nhóm sau: Hàng cấm phải có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi từ Điều 153 đến Điều 161, hoặc đã bị kết án về một trong những tội này nhưng chưa được xoá án tích (Hàng cấm là đối tượng tác động của Điều 153 trừ các mặt hàng cấm đã quy định thành các tội độc lập như ma tuý, vũ khí quân dụng... vì các loại tài sản này đã được quy định thành các tội danh độc lập); vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá; hàng hoá khác phải có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên (Nếu dưới 100 triệu đồng thì phải thoả mãn 1 trong 2 điều kiện: Đã bị xử phạt hành chính về 1 trong những hành vi được quy định từ Điều 153 đến Điều 161; hoặc đã bị kết án về một trong những tội này nhưng chưa được xoá án tích).
+ Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự.
+ Mặt chủ quan của tội phạm lỗi cố ý trực tiếp.
- Hình phạt: Các tình tiết định khung hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn, thu lời bất chính lớn, chưa được hướng dẫn cụ thể, do đối tượng tác động của tội buôn lậu rất rộng, đa dạng. Mới chỉ có hướng dẫn về một số mặt hàng như thuốc lá ngoại, thuốc pháo…
1.3.2. Tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biến giới (Điều 154 BLHS).
Các dấu hiệu pháp lý và các tình tiết định khung giống điều 153 BLHS, chỉ khác điều 153 BLHS, ở hành vi khách quan đó là hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biến giới.
1.3.3. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm (Điều 155 BLHS)
- Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.
- Mặt khách quan của tội phạm đặc trưng bởi các dấu hiệu sau: Hành vi khách quan được thực hiện bởi một trong bốn loại hành vi: Hành vi sản xuất hàng cấm; hành vi tàng trữ hàng cấm; hành vi vận chuyển hàng cấm; hành vi buôn bán hàng cấm.
- Đối tượng tác động của tội phạm là hàng cấm có số lượng lớn (trừ các mặt hàng cấm là ma tuý, động vật, thực vật rừng quý hiếm, vũ khí quân dụng...).
Danh mục các mặt hàng cấm theo Nghị định số 11/CP của Chính Phủ ban hành ngày 3/3/1999, đó là: Vật thuộc di tích lịch sử văn hoá; sản phẩm văn hoá phản động đồi truỵ, mê tín dị đoan; thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài; thuốc chữa bệnh, dụng cụ y học chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục, nhân cách, sức khoẻ trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự an toàn xã hội; pháo nổ, thuốc pháo.
Theo hướng dẫn tại Công văn số 81/2002 ngày 10/6/2002 của Chánh án TANDTC thì hàng cấm là thuốc lá ngoại: từ 1.500 đến 4.500 bao là số lượng lớn, từ 4.500 đến 13.500 bao là số lượng rất lớn và từ 13.500 bao trở lên là số lượng đặc biệt lớn.
Thông tư 01/96/BNV-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/01/1996 hướng dẫn định lượng thuốc pháo và pháo nổ. Nếu hàng cấm có số lượng chưa lớn phải thoả mãn một trong ba điều kiện: Thu lời bất chính lớn; đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được quy định từ Điều 153 BLHS đến Điều 161 BLHS; đã bị kết án về một trong những tội này nhưng chưa được xoá án tích.

1.3.4. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156 BLHS)
- Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.
- Mặt khách quan của tội phạm đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:
+ Hành vi khách quan được thực hiện bằng một trong hai loại hành vi: Hành vi sản xuất hàng giả; hành vi buôn bán hàng giả.
+ Đối tượng tác động của tội phạm là hàng giả. Có 2 loại hàng giả là hàng giả về nội dung và hàng giả về hình thức:
Hàng giả về hình thức: Là loại hàng có đảm bảo về giá trị sử dụng nhưng nó mang nhãn hiệu của một cơ sở sản xuất khác. Đối với người sản xuất buôn bán hàng giả về hình thức bị xử lý về Điều 171 BLHS.
Hàng giả về nội dung: Là loại hàng hoá mà mức chất lượng thực tế thấp hơn mức tối thiểu mà Nhà nước quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, hoặc hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên của nó. Hàng giả về nội dung là đối tượng tác động của tội này (Xem Công văn số 36, ngày 2/5/91 TANDTC và Thông tư số 10/2000/TTLT - BTC - BCA - BKHCN&MT ngày 25/4/2000 của Bộ thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường).
 Chú ý: Nếu một người có hành vi sản xuất hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thì cấu thành tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh theo Điều 157 BLHS và tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi theo Điều 158 BLHS với các mức hình phạt nặng hơn. Nếu sản xuất, buôn bán hàng giả là nguyên vật liệu xây dựng thì xử lý theo Điều 156 BLHS.
1.3.5. Tội đầu cơ (Điều 160 BLHS)
- Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.
- Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:
+ Hành vi khách quan là hành vi mua vét hàng hoá tiêu dùng thiết yếu trong đời sống hàng ngày như lương thực, xăng dầu với số lượng lớn.. Mua vét được hiểu là có bao nhiêu mua hết bấy nhiêu, vượt ngoài nhu cầu tiêu dùng nhằm mục đích bán lại để kiếm lời.
+Thủ đoạn phạm tội thể hiện ở một trong hai dạng: Lợi dụng tình hình khan hiếm (Thực tế trên thị trường mặt hàng kẻ phạm tội đầu tư thực sự không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng) và tạo ra sự khan hiếm giả tạo (Thực tế mặt hàng đó đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng nhưng can phạm đã tung tin thất thiệt làm người tiêu dùng lầm tưởng hàng hoá khan hiếm mà bỏ tiền mua hàng của họ với giá cao hơn).
+ Hoàn cảnh phạm tội hành vi trên chỉ cấu thành tội phạm nếu thực hiện trong hoàn cảnh có thiên tai, dịch bệnh hoặc chiến tranh.
1.3.6. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS)
- Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Chủ thể của tội phạm là người có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Ví dụ: Thủ trưởng cơ quan, chánh văn phòng, trưởng phòng tài vụ, kế toán.
- Mặt chủ quan của tội phạm lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp, có thể là lỗi cố ý gián tiếp.
- Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:
+ Hành vi khách quan là hành vi làm trái (tức là làm không đúng không đầy đủ) các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế.
+ Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Cụ thể là phải gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước từ 100 triệu đồng trở lên hoặc dưới 100 triệu đồng phải thoả mãn đồng thời 2 điều kiện: Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm và gây hậu quả nghiêm trọng khác như: làm hư hỏng cán bộ, lũng đoạn tổ chức, ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, công nhân bị thất nghiệp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của cán bộ, công nhân của cơ quan, công ty.
2. Một số vấn đề chú ý về những sửa đổi, bổ sung các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có đặc thù riêng, phụ thuộc vào chính sách kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ, một hành vi trong giai đoạn này có thể bị coi là xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhưng giai đoạn khác lại không phải là tội phạm và ngược lại. Vì vậy, việc hoàn thiện Bộ luật hình sự cũng như hướng dẫn, giải thích các quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là vô cùng quan trọng, đòi hỏi phải có tính thay đổi và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của đất nước.
Việc hướng dẫn, giải thích quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tình tiết định tội, định khung trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là yêu cầu cần thiết giúp cho những người tiến hành tố tụng xác định tội danh và áp dụng pháp luật chính xác tránh những sai lầm dẫn đến việc phải hủy bản án.
Bộ luật hình sự chỉ quy định những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm còn hành vi cụ thể xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nào, do ai quy định lại phải căn cứ vào các văn bản của nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế mới xác định được. Vì thế, ngoài việc áp dụng Bộ luật hình sự thì cần có sự thống nhất với các luật chuyên ngành như: Luật thuế, Luật ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn.
Vì vậy, BLHS năm 2009 đã có những sửa đổi, bổ sung phần các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cho phù hợp.
2.1. Những sửa đổi, bổ sung các tội phạm đã được quy định trong BLHS năm 1999 gồm:
a) Bỏ hình phạt tử hình và sửa đổi cụm từ “hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” thành cụm từ “hai mươi năm hoặc tù chung thân” tại khoản 4 Điều 153, khoản 3 Điều 180 BLHS.
b) Sửa đổi tăng loại hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 1 Điều 160 của Tội đầu cơ lên từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng” (BLHS năm 1999 quy định phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng).
c) Sửa đổi giá trị số tiền trốn thuế trong cấu thành tội phạm và cấu thành tăng nặng tại Điều 161 BLHS về Tội trốn thuế như sau:
- Sửa đổi khoản 1: Người nào trốn thuế với số tiền từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng (BLHS 1999 quy định từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng) hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm.
- Sửa đổi khoản 2: Phạm tội trốn thuế với số tiền từ ba trăm triệu đồng đến dưới sáu trăm triệu đồng (BLHS năm 1999 quy định từ 150 đến dưới 500 triệu đồng) hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
- Sửa đổi khoản 3: Phạm tội trốn thuế với số tiền từ sáu trăm triệu đồng (BLHS năm 1999 quy định từ 500 triệu đồng) trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
d) Sửa đổi, bổ sung Điều 171 về Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp như sau:
- Sửa đổi cơ bản dấu hiệu cấu thành tội phạm và nâng mức hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 1 lên từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng (Bỏ quy định dấu hiệu hành vi gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích mới được coi là phạm tội của Điều 171 BLHS năm 1999).
- Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 2 với mức phạt tiền từ bốn trăm triệu đồng đến một tỷ đồng và bỏ điểm c tình tiết định khung tăng nặng gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
- Tăng mức phạt tiền bổ sung tại khoản 3 lên từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng (BLHS năm 1999 quy định từ 10 triệu đến 100 triệu đồng).
đ) Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 174 BLHS) được sửa đổi bổ sung toàn diện phần các dấu hiệu cấu thành tội phạm, cấu thành tăng nặng và bổ sung thêm một khung hình phạt cũng như tăng mức phạt tiền bổ sung. Cụ thể như sau:
1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Đất có diện tích rất lớn hoặc có giá trị rất lớn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:
a) Đất có diện tích đặc biệt lớn hoặc có giá trị đặc biệt lớn;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Khi xét xử tội phạm này cần chú ý phân biệt với dấu hiệu cấu thành của tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 285 BLHS) và tội “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 165 BLHS) dẫn đến nhầm lẫn trong việc xác định tội danh.
2.2. Bổ sung một số loại tội phạm mới
2.2.1. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 164a).
1. Người nào in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Hoá đơn, chứng từ có số lượng rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
đ) Thu lợi bất chính lớn;
e) Tái phạm nguy hiểm;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
2.2.2. Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 164b)
1. Người nào có trách nhiệm bảo quản, quản lý hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước mà vi phạm quy định của Nhà nước về bảo quản, quản lý hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
          Khi xét xử các hành vi phạm tội theo Điều 164a và Điều 164b mới bổ sung cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Trước đây khi BLHS chưa quy định các hành vi này là tội phạm thì khi xem xét trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán hóa đơn được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23-11-2004. Theo Thông tư này hướng dẫn thì tùy mục đích mua bán và sử dụng hóa đơn mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế (Điều 160 BLHS); Tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả (Điều 181 BLHS); Tội mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước (Điều 268 BLHS) hoặc là Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS). Trường hợp người bán biết rõ mục đích của người mua thì người bán phạm tội tương ứng với người mua.
          Để áp dụng đúng quy định tại Điều 164a về Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, sau khi thống nhất với Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, tại công văn số 268/TANDTC - HS ngày 02/11/2012, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm về các hành vi liên quan đến hóa đơn giá trị gia tăng như sau:
          + Đối với hành vi mua, bán hóa đơn giá trị gia tăng mà chứng minh được hóa đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hóa thì hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo Điều 164a Bộ luật hình sự.
          + Đối với hành vi mua, bán hóa đơn giá trị gia tăng mà không chứng minh được hóa đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hóa (còn nguyên như khi phát hành) thì hành vi này cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo Điều 164a Bộ luật hình sự.
- Không phụ thuộc vào mục đích của việc in, phát hành, mua bán mà chỉ cần hành vi in, phát hành, mua bán trái phép với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích thì được coi là hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 164a BLHS.
- Đối với các tình tiết như thế nào là số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn, hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 164a và 164b, là vấn đề đặt ra cần phải chờ văn bản hướng dẫn mới có thể áp dụng thống nhất về các tội này.
2.2.3. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a)
1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ bốn trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Như vậy, khi xét xử loại tội phạm này cần chú ý một số vấn đề sau:
- Thế nào là quyền tác giả, quyền liên quan:
Theo luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì quyền tác giả là quyền của tổ chức cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh được mã hóa (khoản 2, 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ).
            - Hành vi xâm hại quyền tác giả, quyền liên quan được coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 170a BLHS khi được thực hiện với quy mô thương mại. Đối với những hành vi sao chép, ghi âm, ghi hình mà không nhằm mục đích thương mại (phục vụ việc học tập, nghiên cứu) thì không bị coi là tội phạm.
2.2.4. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a)
1. Người nào cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính lớn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” 
Như vậy, mức hình phạt đối với hành vi này có thể lên tới 5 năm và có thể bị cấm hành nghề trong một thời gian. Thế nào là “hậu quả nghiêm trọng” thì hiện nay vẫn chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, nhiều khả năng “hậu quả nghiêm trọng” sẽ được “qui đổi” thành giá trị tiền. “Hậu quả” ở đây chính là thiệt hại của các nhà đầu tư, của các doanh nghiệp phát hành chứng khoán, tổ chức hoạt động chứng khoán, của Nhà nước … 
2.2.5. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b)
1. Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Theo Nghị định 58/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán, giao dịch nội bộ bị cấm bao gồm các hành vi sau: Sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán; vô tình hay cố ý tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ (Khoản 1 Điều 70 Nghị định 58/2012/NĐ -CP).
2.2.6. Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c)
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi thao túng giá chứng khoán sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo;
b) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính lớn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
- Các hành vi thao túng chứng khoán bao gồm: Thông đồng trong giao dịch chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo; giao dịch chứng khoán bằng hình thức câu kết, lôi kéo người khác liên tục đặt lệnh mua bán chứng khoán gây ảnh hưởng đến cung cầu và giá chứng khoán, thao túng chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp khác (Điều 27 Nghị định số 85/2010/NĐ-CP, ngày 2/8/2010 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán).
- Giao dịch thao túng thị trường chứng khoán bị cấm bao gồm: Sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình, của người khác hoặc thông đồng với nhau liên tục mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; liên tục mua hoặc bán chứng khoán với khối lượng chi phối vào thời điểm mở cửa hoặc đóng cửa thị trường nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hoặc giá mở cửa mới cho loại chứng khoán đó trên thị trường… (Khoản 2 Điều 40 Nghị định 58/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán.)
Nếu xét thấy giá trị khoản thu trái pháp luật hoặc mức độ gây thiệt hại của hành vi vi phạm đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì Uỷ ban chứng khoán sẽ chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xem xét để xử lý hình sự theo quy định.
Mặc dù Luật Chứng khoán năm 2006, có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2007, nhưng mãi đến năm 2009, các quy định về tội phạm trên lĩnh vực chứng khoán mới được bổ sung vào BLHS. Trong đó bao gồm: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181 a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181 b); tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181 c). Tuy vậy, để các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các điều luật trên trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên lĩnh vực chứng khoán thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan có liên quan cần có văn bản giải thích, hướng dẫn kịp thời về một số tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “thu lợi bất chính lớn”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”, “có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán”, “thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn”… làm cơ sở cho việc tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự, tránh việc hành chính hoá các quan hệ pháp luật hình sự, hoặc hình sự hoá các quan hệ pháp luật hành chính.
Mục 2 Chương IX (từ Điều 121 đến Điều 130) Luật Chứng khoán có 7 điều  quy định về các hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đó là: Vi phạm quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng (Điều 121); vi phạm quy định về niêm yết chứng khoán (Điều 123); vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán (Điều 124); vi phạm quy định về hoạt động kinh doanh chứng khoán và chứng chỉ hành nghề chứng khoán (Điều 125); vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán (Điều 126); vi phạm quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, về ngân hàng giám sát (Điều 127); có hành vi cản trở việc thanh tra (Điều 130). Đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, nhưng hiện nay BLHS mới chỉ quy định 3 hành vi bị coi là tội phạm. Do đó, khi có cá nhân, tổ chức thực hiện những hành vi trên không thể xử lý bằng pháp luật hình sự được. Điều này đặt ra vấn đề cần nghiên cứu, bổ sung một số tội danh về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
II. THỰC TIỄN XÉT XỬ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm ở nước ta đã và đang có những diễn biến hết sức phức tạp, không chỉ gia tăng về số vụ, số người phạm tội mà tính chất của tội phạm cũng có nhiều thay đổi. Tội phạm đã có xu hướng cấu kết với nhau thành từng băng, ổ nhóm hoạt động trên những địa bàn khác nhau với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, công khai và trắng trợn. Công tác xét xử ở Tòa án các cấp nói chung đã từng bước được củng cố và tăng cường. Theo báo cáo tổng kết công tác từ năm 2007 đến năm 2011 của Tòa án nhân dân tối cao thì mặc dù số lượng các vụ án hình sự mà Tòa án các cấp đã thụ lý, giải quyết có lúc giảm (cao nhất là vào năm 2009, thấp nhất là vào năm 2011), tuy nhiên tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng còn xảy ra nhiều.
Hiện nay, việc xét xử các tội xâm phạm về trật tự quản lý kinh tế cũng hầu hết các năm đều còn tồn đọng nhiều, tỷ lệ bị cáo khi thụ lý và tỷ lệ bị cáo khi đã xét xử đều thấy bình quân số bị cáo trên một vụ án có xu hướng ngày càng tăng; tỷ lệ số vụ án đưa ra xét xử về các tội này chiếm một phần đáng kể trong số các tội phạm khác. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì năm 2007 các vụ án cũ còn lại và thụ lý mới là 61.813 vụ với 107.696 bị cáo, trong khi đó số vụ án đưa ra xét xử là 55.299 vụ với 92.260 bị cáo (6.514 vụ và 15.436 bị cáo chưa được xét xử); năm 2008 còn 5.454 vụ và 12.699 bị cáo; năm 2009 còn 8.255 vụ và 18.593 bị cáo; năm 2010 còn 5.527 vụ và 12.950 bị cáo; năm 2011 còn 5.410 vụ và 13.393 bị cáo chưa được đưa ra xét xử; năm 2011, thụ lý là 1710 vụ, xét xử 965 vụ, còn lại hơn 100 vụ chưa xét xử. So sánh tỷ lệ bị cáo khi thụ lý và tỷ lệ bị cáo khi đã xét xử cho thấy bình quân số bị cáo trên một vụ án có xu hướng ngày càng tăng, ví dụ năm 2007 và năm 2008 số bị cáo Tòa án thụ lý trung bình khoảng 1,74 bị cáo/01 vụ đến năm 2011 tỷ lệ số bị cáo tăng lên 1,78/01 vụ. Số bị cáo bị đưa ra xét xử từ năm 2007 đến năm 2010 giao động từ 1,67 bị cáo/01 vụ đến năm 2011 con số này tăng lên là 1,71 bị cáo/01 vụ. Cũng theo số liệu thống kê thì tỷ lệ số vụ án đưa ra xét xử về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế chiếm số lượng đáng kể trong số các tội phạm khác (Năm 2007 chiếm 1,37%, năm 2008 chiếm 1,4%, năm 2009 chiếm 1,58%, năm 2010 chiếm 1,56% và năm 2011 chiếm 1,44%).
Các số liệu trên cho thấy xu hướng tăng nhanh về số lượng người phạm tội, sự nguy hiểm của hành vi phạm tội ngày càng cao, được câu kết chặt chẽ, lôi kéo nhiều người phạm tội, việc xét xử ở các cấp Tòa án còn chưa khẩn trương, kịp thời và trên thực tế cũng có nhiều vụ án để quá thời hạn xét xử của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều này đòi hỏi Tòa án phải nâng cao nghiệp vụ của cán bộ, đổi mới nguyên tắc làm việc để đạt được hiệu quả cao trong việc xét xử, tránh tình trạng để án còn tồn đọng nhiều như hiện nay.
III. NHỮNG SAI LẦM. THIẾU SÓT CẦN RÚT KINH NGHIỆM
Mặc dù các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ở nước ta tương đối phổ biến và có số lượng lớn, nhưng số lượng bản án, quyết định bị hủy không nhiều. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử vẫn còn một số sai lầm thường gặp như sai lầm trong xác định tội danh, sai lầm trong xác định tài sản chiếm đoạt, sai lầm trong xác định trách nhiệm bồi thường và sai lầm trong xác định tư cách người tham gia tố tụng.
1.     Sai lầm trong việc xác định tội danh
Việc định tội danh sai tuy không còn là phổ biến, nhưng có một số trường hợp không phải do nguyên nhân khách quan, mà chủ yếu do trình độ nghiệp vụ hoặc không nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật và hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự nên đã định tội không đúng như: Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản lại bị Tòa án kết án về “Tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả”; người phạm tội có hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xét xử về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; người phạm tội vận chuyển hàng cấm qua biên giới bán kiếm lời thì Toà án lại kết án về “tội buôn bán hàng cấm” chứ không kết án về “tội buôn lậu”…
Ví dụ 1: Vụ án Lý Kông Sinh phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”
Với chức vụ là Phó Chủ tịch UBND xã Ngọc Thanh, Lý Kông Sinh đã trình cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất v­ườn đối với các loại đất (nh­ư đất chiếm dụng của cơ quan Nhà nư­ớc, tổ chức, đất lâm nghiệp, đất ao, đất trồng lúa, đất trồng chè, đất đ­ược giao không đúng thẩm quyền, đất chuyển như­ợng trái pháp luật) và đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng đối tư­ợng cho 82 trư­ờng hợp. Kết quả là cơ quan có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất ở và đất v­ườn cho 24 tr­ường hợp trong đó có 06 trư­ờng hợp đư­ợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cán bộ và người thân thích của một số cán bộ tại địa phư­ơng. Tổng diện tích đất mà 24 trư­ờng hợp đ­ược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất v­ườn không đúng quy định là 72.762m2, trong số này có 18 trư­ờng hợp là đất chiếm dụng của cơ quan Nhà n­ước, tổ chức, đất lâm nghiệp, đất ao, đất trồng lúa, đất trồng chè, đất đư­ợc giao không đúng thẩm quyền và đất chuyển nh­ượng trái pháp luật; 06 tr­ường hợp còn lại là cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng đối t­ượng.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Lý Kông Sinh 09 tháng tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Bản án sơ thẩm nêu trên không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên có hiệu lực pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm đã có sai lầm trong việc định tội danh, Lý Kông Sinh phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 285 Bộ luật hình sự là không đúng nên đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do:
Trong vụ án này, hành vi phạm tội của Lý Kông Sinh có dấu hiệu của tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nư­ớc về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 165 BLHS), vì với chức vụ là Phó Chủ tịch UBND xã kiêm Chủ tịch Hội đồng đăng ký quyền sử dụng đất của xã, Lý Kông Sinh phải biết rõ về điều kiện, tiêu chuẩn để đ­ược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất vườn, về quỹ đất của xã, cũng nh­ư tình trạng biến động đất đai tại địa phương, nh­ưng Sinh vẫn trình cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp không đủ điều kiện và không đúng đối tượng (trong số các trư­ờng hợp này thì hầu hết là đất chiếm dụng của cơ quan Nhà nư­ớc, tổ chức, đất lâm nghiệp, đất ao, đất trồng lúa, đất trồng chè, đất đư­ợc giao không đúng thẩm quyền và đất chuyển như­ợng trái pháp luật).
Ví dụ 2: Vụ án Trần Quang Chiêu và các bị cáo bị xét xử về tội “tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả”
Trần Quang Chiêu là giám đốc công ty chế biến thủy sản và xuất nhập khẩu Cà Mau (gọi tắt là Công ty), Nguyễn Tín Ngưỡng, Trần Văn Hoàng là Phó Giám đốc, Vương Trung Tuấn là kế toán trưởng, Trương Việt Thù là Phó giám đốc xí nghiệp 4, Trương Vĩnh Thắng là nhân viên thu mua xí nghiệp 2, Trần Thị Nguyệt là nhân viên thu mua xí nghiệp 4. Do nguồn nguyên liệu thu mua từ các đại lý không có hóa đơn giá trị gia tăng nhiều nên Trương Việt Thù, Trương Vĩnh Thắng đã bàn bạc với Trần Quang Chiêu về việc mua hóa đơn giá trị gia tăng và được Chiêu đồng ý. Chiêu, Thù, Thắng, Hoàng, Ngưỡng, Tuấn, Nguyệt mua hóa đơn giá trị gia tăng của cơ sở kinh doanh Tạ Văn Kha do Huỳnh Thanh Phong làm chủ và của Công ty TNHH Mỹ Hiệp do Dương Thị Mỹ Linh làm Giám đốc. Số tiền thuế VAT 5% trên hóa đơn được hoàn thuế, Phong nhận 3,5%, để lại xí nghiệp 1,5% trả cho người bán nguyên liệu không có hóa đơn. Toàn bộ số tiền thuế VAT đó được Công ty lập thủ tục xin khấu trừ hoàn thuế và được Cục thuế tỉnh Cà Mau hoàn thuế với tổng số tiền là 3.606.671.501 đồng.
Khi sự việc bị phát hiện, cục thuế tỉnh Cà Mau đã ra quyết định thu hồi lại toàn bộ số tiền 3.606.671.501 đồng tiền hoàn thuế VAT đối với công ty.
Tại cáo trạng số 04/KSĐT-HS ngày 3/1/2006, VKSND tỉnh Cà Mau đã truy tố Trần Quang Chiêu, Vương Trung Tuấn, Trần Văn Hoàng, Trương Việt Thù, Trương Vĩnh Thắng, Trần Thị Nguyệt, Huỳnh Thanh Phong về tội “tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả” theo khoản 2 Điều 181 BLHS.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 84/2006/HSST ngày 12/5/2006, TAND tỉnh Cà Mau áp dụng khoản 2 Điều 181 BLHS, các điểm b, p khoản 1 Điều 46 xử phạt Huỳnh Thanh Phong 7 năm tù; áp dụng khoản 2 Điều 181, các điểm p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46, 47, 60 BLHS, xử phạt Trần Quang Chiêu 3 năm tù cho hưởng án treo, với thời gian thử thách là 3 năm; Vương Trung Tuấn 2 năm 6 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 2 năm 6 tháng tù; Trương Việt Thù 2 năm 6 tháng, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 2 năm 6 tháng; Trương Vĩnh Thắng 2 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 2 năm; Trần Văn Hoàng 2 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 2 năm; Trần Thị Nguyệt 1 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 1 năm đều về tội “tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả”; áp dụng điều 42 BLHS, 46 BLTTHS buộc Huỳnh Thanh Phong nộp lại số tiền chiếm đoạt là 1.257.100.061 đồng trả lại cho công ty, buộc Trần Quang Chiêu, Vương Trung Tuấn, Trương Việt Thù, Trương Vĩnh Thắng, Trần Văn Hoàng, Trần Thị Nguyệt liên đới bồi thường cho công ty 642.499.017 đồng chia phần mỗi bị cáo phải bồi thường 107.083.169 đồng.
Các bị cáo kháng cáo.
Tại Quyết định kháng nghị số 101/KNPT-P1 ngày 25/5/2006, Viện trưởng VKSND tỉnh Cà Mau đề nghị tòa phúc thẩm TANDTC tại thành phố HCM xét xử tăng hình phạt đối với các bị cáo…
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1426/2006/HSPT ngày 21/9/2006 Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP. HCM đã giữ nguyên quyết định hình phạt đối với các bị cáo Phong, Chiêu, Nguyệt; tăng hình phạt với các bị cáo còn lại … và đều về tội danh “tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả”.
Tại quyết định kháng nghị số 20/2007/HS-TK ngày 21/8/2007, Chánh án TANDTC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ cho VKSNDTC điều tra lại theo thủ tục chung với lý do: Hành vi của các bị cáo lập hồ sơ hoàn thuế VAT khống có dấu hiệu của tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chứ không phải tội “tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả”. Vụ án còn bỏ lọt tội phạm. Do đó, cần phải điều tra lại.
2.     Sai lầm trong việc xác định tài sản chiếm đoạt
Việc xác định giá trị tài sản chiếm đoạt có ý nghĩa trong việc xác định mức hình phạt, ảnh hưởng đến tính chính xác và nghiêm minh của bản án, quyết định. Thực tiễn xét xử tại tòa án cho thấy vẫn có tòa án sai lầm trong vấn đề này dẫn đến bản án, quyết định bị hủy.
Ví dụ 1: Vụ án vợ chồng Trần Minh Huệ và Nguyễn Thị Ngọc Thiên bị xử phạt về “tội trốn thuế”.
Vợ chồng Trần Minh Huệ và Nguyễn Thị Ngọc Thiên là chủ cơ sở kinh doanh xe gắn máy Thành Tiên, được UBND thị xã T cấp giấy chứng nhận kinh doanh số 00804 ngày 25/7/1994 và được Chi cục thuế thị xã T quản lý theo chế độ tự kê khai doanh thu, được tính thuế doanh thu trên chênh lệch giữa giá bán - giá mua và chịu thuế lợi tức theo kết quả kinh doanh hàng năm của cơ sở. Trong quá trình kinh doanh từ tháng 9 năm 1996 đến tháng 6 năm 1998, vợ chồng Huệ đã mua vào và bán ra 916 xe máy các loại nhưng chỉ kê khai nộp thuế 250 xe máy với chênh lệch giữa giá bán hàng và giá mua hàng là 116.650.000 đồng. Chi cục thuế thị xã T đã thu thuế doanh thu trên chênh lệch bán 250 chiếc xe (mỗi xe chênh lệch là 466.600 đ) mà cơ sở Thành Tiên báo cáo: 116.650.000 đồng x 16% = 18.664.000 đ. Còn lại 666 xe máy đã bán, vợ chồng Huệ đã để ngoài sổ sách và không kê khai với mục đích trốn thuế.
Qua kiểm tra và đối chiếu các tài liệu thu giữ tại cửa hàng, Công an thị xã T đã khởi tố vụ án, khởi tố 2 bị can Huệ và Thiên về tội trốn thuế và trưng cầu giám định để xác định số thuế mà các bị can đã trốn. Cục thuế tỉnh B đã áp dụng tiết b, điểm 2, phần C của Thông tư số 97/TC/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ Tài chính để xử lý cơ sở kinh doanh đã vi phạm các điều kiện về tính thuế doanh thu. Cục thuế tỉnh B đã xác định số thuế Cơ sở kinh doanh xe máy Thành Thiên phải nộp khi để ngoài sổ sách kế toán 696 xe máy (bao gồm cả 30 xe máy có liên quan trong một vụ án khác) là 710.994.442 đồng, bao gồm:
+ Thuế doanh thu: 386.715.620 đồng.
+ Thuế lợi tức: 324.278.822 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 54/HSST ngày 01/8/2002, TAND thị xã T áp dụng khoản 3, khoản 4 Điều 161; các điểm a, i khoản 1 Điều 48; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 BLHS xử phạt Thiên và Huệ mỗi bị cáo 3 năm tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 4 năm và phạt tiền 710.994.442 đ về trội "trốn thuế"; buộc 2 bị cáo phải nộp số tiền trốn thuế là 710.994.442 đ vào Ngân sách Nhà nước.
Ngày 11/8/2002, Thiên và Huệ kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại số tiền thuế và khoản tiền phạt.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 09/HSPT ngày 21/3/2003, TAND tỉnh B đã sửa bản án sơ thẩm về hình phạt tiền và số tiền truy thu thuế, vì bản án sơ thẩm chưa trừ đi số thuế của 30 xe đó bị tịch thu; áp dụng khoản 4 Điều 161 BLHS, phạt tiền Thiên và Huệ 628.285.185 đ; buộc hai bị cáo phải nộp số tiền trốn thuế là 682.285.185 đồng.
Trên cơ sở kháng nghị của VKSNDTC, ngày 19/4/2005, Hội đồng giám đốc thẩm TANDTC đã ban hành Quyết định số 08/2005/HS-GĐT hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 54/HSSP ngày 01/8/2002 của TAND thị xã T và bản án hình sự phúc thẩm số 09/HSPT ngày 21/3/2003 của TAND tỉnh B; giao hồ sơ vụ án cho TAND thị xã T để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, khi xác định số thuế cơ sở kinh doanh xe máy Thành Thiên thực trốn là bao nhiêu, cần phải dựa trên số liệu xác định rằng, nếu cơ sở này kê khai đủ thì số thuế thu được khi mua vào và bán ra 666 xe máy này là bao nhiêu và số thuế đó phải được tính trên doanh thu chênh lệch giữa giá bán ra và giá mua vào số xe máy đó (vì cơ sở này đã được cơ quan quản lý thuế trên địa bàn chấp nhận phương pháp tính thuế này). Cục thuế dựa trên nguyên tắc phạt về khai man, lậu thuế đối với cơ sở vi phạm các quy định về việc tính thuế trên chênh lệch phải tính trên doanh thu để xác định số thuế cơ sở kinh doanh xe máy Thành Thiên đã trốn khi để ngoài sổ sách kế toán 666 xe máy là đã vi phạm nguyên tắc: Một hành vi vi phạm pháp luật chỉ bị xử lý một lần.
Bản án phúc thẩm xác định số thuế 682.282.185 đồng cơ sở kinh doanh xe máy Thành Thiên đã trốn là không chính xác, không phản ánh đúng số thuế mà cơ sở kinh doanh xe máy Thành Thiên thực trốn vì số tiền 682.285.185 đồng đã bao gồm cả yếu tố xử lý của ngành thuế khi phát hiện cơ sở này vi phạm chế độ tài chính, kế toán trong quá trình kinh doanh.
Bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm đã sai lầm trong việc xác định số lượng thuế thực trốn của Thiên và Huệ trong quá trình kinh doanh 666 xe máy. Vì vậy, quyết định giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để xét xử lại.
Ví dụ 2: Vụ án Ngô Thị Phương phạm tội sản xuất hàng giả
Ngày 26/02/2008, Đội quản lý thị trường quận TB kiểm tra và phát hiện tạm giữ tại Công ty TNHH may và xuất nhập khẩu Hoàng Huỳnh (số 101 Nhất Chi Mai, phường A, quận TB) số hàng hoá gồm 14.916 cái áo thun lưới (trong đó có 12.440 áo thun nhãn hiệu ADIDAS và 2.476 áo thun nhãn hiệu NIKE) đang đóng kiện để gửi đi nước ngoài. Ngoài ra còn thu giữ của Phương những vật chứng như sau: 01 máy cắt, 01 bộ rập mẫu áo bằng bìa cac-tông. Tạm giữ và giao cho Huỳnh Ngọc Thái (chồng Ngô Thị Phương) quản lý một máy ép thuỷ lực tự chế.
Quá trình điều tra, Công an quận TB làm rõ được hành vi sản xuất hàng giả của Ngô Thị Phương.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 21/2009/HSST ngày 22/01/2010 Tòa án nhân dân quận TB, thành phố H, xử phạt Ngô Thị Phương 2 năm 6 tháng tù về tội "Sản xuất hàng giả”; áp dụng khoản 4 Điều 156 BLHS phạt tiền bị cáo Phương 5.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.
Ngày 25/01/2010, bị cáo Ngô Thị Phương kháng cáo xin được giảm án và xin được án treo.
Bản án hình sự phúc thẩm số 263/2010/HSPT ngày 31/5/2010 của Tòa án nhân dân thành phố H chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, áp dụng khoản 1 Điều 156; các điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60  Bộ luật hình sự, xử phạt Ngô Thị Phương 02 năm 6 tháng tù về tội "Sản xuất hàng giả”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 5 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Ngày 28/10/2010, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 28/QĐ/VKSTC-V3 kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án hình sự phúc thẩm số 263/2010/HSPT ngày 31/5/2010 của Tòa án nhân dân thành phố H và bản án hình sự sơ thẩm số 21/2009/HSST ngày 22/01/2010 Tòa án nhân dân quận TB, thành phố H; đề nghị Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm để hủy các bản án nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
          Tại Quyết định giám đốc thẩm số 23/2011/HS-GĐT ngày 26-7-2011, Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị tuyên huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 263/2010/HSPT ngày 31/5/2010 của Tòa án nhân dân thành phố H và bản án hình sự sơ thẩm số 21/2009/HSST ngày 22/01/010 Tòa án nhân dân quận TB, thành phố H để điều tra lại; giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để giải quyết theo thủ tục chung.
Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã căn cứ vào số tiền 149.160.000 đồng do Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận TB kết luận, để xử phạt bị cáo theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự là không chính xác. Việc định giá tài sản phải dựa trên giá trị hàng hóa thật được bán trên thị trường, hàng hóa giả không được phép bán trên thị trường nên không thể lấy đó làm cơ sở định giá tài sản. Vì vậy, việc Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận TB dựa trên giá trị hàng hóa giả (áo thun lưới không cổ, hàng Việt Nam giả nhãn hiệu ADIDAS và NIKE) được bán trên thị trường để làm căn cứ định giá là không đúng với quy định của pháp luật.
Mặt khác, với những tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nếu căn cứ vào số lượng hàng giả mà Ngô Thị Phương đã sản xuất ra tương đương với số lượng hàng thật cả hai loại áo có tổng giá trị là 7.779.880.000 đồng để xét xử bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự cũng chưa có căn cứ. Bởi, việc xác định tổng giá trị hàng thật của cả hai loại áo là 7.779.880.000 đồng mới chỉ dựa trên các công văn trả lời của hai văn phòng là Văn phòng luật sư Đoàn Hồng Sơn - Đại diện theo ủy quyền của công ty ADIDAS và Văn phòng đại diện thường trú NIKE tại thành phố H mà chưa có sự thẩm định, định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự là không tuân theo đúng các quy định của pháp luật về định giá tài sản trong tố tụng hình sự.
3.     Sai lầm trong xác định trách nhiệm bồi thường
Trong các vụ án về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, bên cạnh khó khăn trong việc xác định tội danh thì việc xác định trách nhiệm bồi thường dân sự cũng gặp phải những vướng mắc nhất định.
Ví dụ: Vụ án Hà Hữu Hiển và các bị cáo phạm “tội trốn thuế”
Hà Hữu Hiển (là giám đốc Công ty TNHH Việt Thắng) và bà Hà Thị Nội (trú tại số 10 ngõ 266 Đội Cấn, phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội) ký hợp đồng liên doanh số 388 ngày 29/01/2010, thỏa thuận Công ty Việt Thắng đại diện đứng tên làm hồ sơ trình cơ quan chức năng tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt cấp giấy phép khai thác mỏ khoáng sản cát, sỏi tại lòng sông Lô thuộc địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc với tỷ lệ góp vốn mỗi bên là 50%; lợi nhuận thu được sau khi đã trừ đi chi phí được tính như sau: Công ty Việt Thắng được hưởng 10% pháp nhân, số còn lại chia đều cho hai bên là 50/50; Công ty Việt Thắng chịu trách nhiệm nộp thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên, thuế môn bài, phí bảo vệ môi trường và thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Thực hiện thỏa thuận trên, Hà Hữu Hiển đã làm hồ sơ đứng tên Công ty Việt Thắng để trình cơ quan chức năng tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt. Từ ngày 26/5/2010 đến ngày 13/8/2010, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ra các quyết định cho Công ty Việt Thắng khai thác cát sỏi thuộc địa phận trên với tổng diện tích các mỏ khai thác là 52,6ha; tổng trữ lượng cát, sỏi là 2.863.993m3; công suất khai thác là 95.000m3/năm; thời hạn khai thác là 05 năm kể từ ngày ban hành quyết định.
Ngày 20/9/2010, Hiển và bà Nội tiếp tục ký thêm hợp đồng số 2467 về việc cùng đầu tư, quản lý để khai thác mỏ khoảng sản. Hai bên thành lập bộ phận sản xuất kinh doanh trực thuộc công ty Việt Thắng lấy tên là Ban quản lý mỏ trong đó Hiển là giám đốc còn bà Nội là Phó giám đốc. Vốn đầu tư ban đầu là 4.460.000.000 đồng. Tại thời điểm ký hợp đồng này bà Nội nộp cho Công ty Việt Thắng 2.230.000.000 đồng.
Do không đủ tiền để đóng theo tỷ phần nên ngày 06/6/2010, Hà Hữu Hiển đã mời những người thân quen tham gia cổ phần và sẽ được phân chia lợi nhuận trên cơ sở góp vốn. Tại biên bản thỏa thuận ngày 06/6/2010 thể hiện: ông Nguyễn Tiến Hải góp 10%, bà Phạm Thị Bích Nhiễn (Bốn) góp 15%, bà Phạm Thị Minh góp 15%, Hà Hữu Hiển góp 10%, Công ty Việt Thắng 5% (nộp vào lợi nhuận của Công ty), bà Hà Thị Nội góp 45% và bà Nội cử chị Đỗ Thị Luyến làm đại diện quản lý mỏ.
Toàn bộ doanh thu bán cát, trích nộp thuế, chi phí, ăn chia lợi nhuận giai đoạn này được hạch toán chung trong hệ thống sổ kế toán với các hoạt động khác của Công ty. Thực tế phản ánh theo sổ kế toán của Công ty từ ngày 18/10/2010 đến ngày 29/12/2010 doanh thu bán cát là 4.762.634.000 đồng nhưng Công ty Việt Thắng xuất hóa đơn giá trị gia tăng và kê khai thuế doanh thu bán ra từ ngày 15/11/2010 đến ngày 29/12/2010 là 5.407.795.895 đồng, tăng so với thực tế khai thác là 645.161.895 đồng.
Tại bản kết luận giám định tài chính số 07 ngày 31/8/2011 của Tổ chức giám định tài chính tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Từ ngày 9/10/2010 đến ngày 29/12/2010 tiền bán cát của Công ty Việt Thắng là 13.749.076.000 đồng. Công ty Việt Thắng đã hoạch toán kê khai số tiền bán cát kỳ tháng 11, kỳ tháng 12 năm 2010 là 5.407.795.895 đồng; tiền bán cát không hoạch toán trong năm 2010 là 8.341.280.105 đồng, nhưng chưa nộp thuế vì vậy phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 3.376.669.812 đồng. Công ty Việt Thắng có trách nhiệm thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 3.376.669.812 đồng…
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 03/2012/HSST ngày 17/01/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc quyết định áp dụng khoản 3 Điều 161; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt Hà Hữu Hiển 03 năm tù về tội “Trốn thuế” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự buộc Công ty Việt Thắng phải nộp cho Chi cục thuế huyện Sông Lô số tiền thuế và phí là 3.376.669.812 đồng. Xác nhận gia đình Hà Hữu Hiển đã nộp số tiền 990.000.000 đồng, còn lại Công ty Việt Thắng phải nộp số tiền 2.386.669.812 đồng.
Ngày 31/01/2012, Hà Hữu Hiển kháng cáo với nội dung: Toàn bộ số tiền do Công ty Việt Thắng trốn thuế đã chia cho các thành viên là bà Nội, bà Bốn, bà Minh và ông Hải nên đề nghị truy thu từ những người này để trả ngân sách Nhà nước, không buộc công ty Việt Thắng nộp 79.733.396 đồng án phí dân sự vì đây không phải là tranh chấp dân sự.
Tại kháng nghị số 75/QĐ-KNPT ngày 01/02/2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc kháng nghị bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử lý vật chứng theo hướng tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.030.000.000 đồng là vật chứng đã thu được; truy thu của những người liên quan đến khoản tiền không hợp pháp là số tiền do Công ty Việt Thắng trốn thuế và phí mà có đã chia để nộp vào ngân sách Nhà nước là 2.346.669.812 đồng và không buộc Công ty Việt Thắng phải nộp án phí dân sự.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 209/2012/HSPT ngày 27/4/2012, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 41 Bộ luật hình sự: Truy thu số tiền trốn thuế và phí của Công ty Việt Thắng để nộp ngân sách Nhà nước. Tổng số tiền là 3.376.669.812 đồng, trong số tiền này các cá nhân phải chịu trách nhiệm là: bà Nội 1.606.324.968 đồng; bà Minh 295.011.656 đồng; bà Nhiễn (Bốn) 295.011.656 đồng; ông Hải 193.537.876 đồng. Ghi nhận ông Hải đã nộp 40.000.000 đồng; bị cáo Hiển nộp 986.783.656 đồng. Ghi nhận bị cáo Hiển đã nộp 990.000.000 đồng.
Tại Quyết định số 22/QĐ-VKSTC-V3 ngày 22/10/2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 209/2012/HSPT ngày 27/4/2012 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội với lý do:
Theo giấy phép kinh doanh và theo hợp đồng đã ký giữa Hà Hữu Hiển và những người góp vốn khác thì Công ty Việt Thắng có trách nhiệm nộp các loại thuế và phí cho Nhà nước theo quy định của pháp luật. Hà Hữu Hiển là đại diện công ty Việt Thắng có hành vi trốn thuế thì Công ty Việt Thắng phải có nghĩa vụ truy nộp số tiền thuế và phí còn thiếu vào ngân sách Nhà nước. Tòa án cấp phúc thẩm không buộc Công ty Việt Thắng phải truy nộp số tiền trốn thuế vào ngân sách nhà nước mà quyết định các thành viên góp vốn phải truy nộp số tiền này vào ngân sách Nhà nước là không đúng với quy định của pháp luật.
Trong vụ án trên, Hà Hữu Hiển là đại diện Công ty TNHH Việt Thắng, tại giấy phép đăng ký kinh doanh mà Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc cấp thì Công ty TNHH Việt Thắng phải có trách nhiệm nộp các loại thuế và phí theo quy định của Nhà nước. Mặt khác, theo hợp đồng hợp tác kinh doanh mà Hà Hữu Hiển là đại diện Công ty TNHH Việt Thắng đã ký với các cá nhân là bà Hà Thị Nội, ông Nguyễn Tiến Hải, bà Phạm Thị Bích Nhiễn (Bốn), bà Phạm Thị Minh đã quy định lợi nhuận thu được sau khi đã trừ chi phí thì Công ty Việt Thắng được hưởng 10% và Công ty Việt Thắng phải có trách nhiệm nộp thuế và các loại phí cho Nhà nước. Như vậy, Hà Hữu Hiển là giám đốc, đại diện của Công ty Việt Thắng đã thực hiện hành vi trốn thuế thì Công ty Việt Thắng phải có nghĩa vụ nộp thuế và các khoản phí cho Nhà nước. Đối với các cá nhân khác góp vốn vào Công ty Việt Thắng, mặc dù không biết việc Hiển trốn thuế nhưng vẫn được chia lợi nhuận trên khoản tiền chưa đóng thuế của Công ty Việt Thắng và Tòa án cũng phải giành quyền khởi kiện vụ án dân sự cho Công ty Việt Thắng để yêu cầu các cá nhân góp vốn hoàn trả lại số tiền thuế chưa đóng. Trong vụ án trên, Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty Việt Thắng phải nộp số tiền thuế là 3.376.669.812 đồng cho Nhà nước là có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định “truy thu số tiền trốn thuế và phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Thắng để nộp ngân sách Nhà nước, tổng số tiền là 3.376.669.812 đồng” đồng thời buộc các thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm về số tiền trên là không đúng với quy định của pháp luật.
Qua đó cho thấy, việc xác định trách nhiệm bồi thường trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng gặp nhiều vướng mắc dẫn đến sai lầm của Tòa án các cấp.
4.     Sai lầm trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng
Một trong những sai lầm thường mắc phải trong quá trình xét xử các tội xâm phạm trật tự về quản lý kinh tế là việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng.
Ví dụ: Vụ án Mai Quý Cường và các bị cáo phạm tội trốn thuế
Năm 2003 Mai Quý Cư­ờng thành lập 03 công ty và thuê ngư­ời đứng tên gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu t­ư thư­ơng mại Hà H­ưng (gọi tắt là Công ty Hà Hư­ng), Công ty Thư­ơng mại Cổ phần Hoàng Loan (gọi tắt là Công ty Hoàng Loan), và Công ty Thư­ơng mại Cổ phần Hư­ng Thịnh (gọi tắt là Công ty H­ưng Thịnh).
Trong 02 năm 2003 đến năm 2004, Cư­ờng cùng với Vũ Hư­ng Bình - Giám đốc  Công ty trách nhiệm hữu hạn Phư­ơng Trinh (trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh) lợi dụng chính sách ân hạn thuế nhập khẩu, thông qua t­ư cách pháp nhân của 03 công ty nêu trên, nhập khẩu 93 xe ô tô từ Hàn Quốc, sau khi bán các xe này đã không nộp thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng, trốn thuế với số l­ượng đặc biệt lớn,cụ thể:
- Từ tháng 12/2003 đến tháng 1/2004 nhập khẩu 37 xe ô tô. Trong đó, nhập qua cửa khẩu Cảng Sài Gòn khu vực 3 thành phố Hồ Chí Minh 06 xe ô tô, với số thuế phải nộp là 3.012.765.439 đồng; nhập qua cửa khẩu cảng Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 31 xe ô tô, với số thuế phải nộp là 2.483.502.000 đồng.
- Từ ngày 12/3/2004 đến 19/3/2004 nhập khẩu 16 xe ô tô qua cửa khẩu Cảng Sài Gòn khu vực 3 thành phố Hồ Chí Minh, với số thuế phải nộp là 4.132.915.719 đồng. 
- Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2004 nhập khẩu 40 xe ô tô. Trong đó, nhập khẩu qua cửa khẩu Cảng Sài Gòn khu vực 3 thành phố Hồ Chí Minh 19 xe ô tô, với số thuế phải nộp là 1.749.374.415 đồng; nhập qua cửa khẩu Cảng Phú Mỹ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 21 xe ô tô, với số thuế phải nộp là 1.731.519.161 đồng. Tổng số tiền thuế mà các đối t­ợng trốn thuế là 13.110.076.734 đồng.
Nguyễn Thanh Hải giúp sức cho Cư­ờng, Bình trong việc giao nhận tiền và trao đổi các tài liệu liên quan đến nhập khẩu xe, đ­ược Cư­ờng chia cho 35.000.000 đồng; Nguyễn Phát Đạt khi phạm tội là Giám đốc Công ty TNHH Ngọc Ẩn, chịu trách nhiệm mua, bán 82 xe ô tô trong tổng số 93 xe ô tô mà các bị cáo nhập khẩu và trốn thuế, đư­ợc chia 594.100.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định Mai Quý Cư­ờng chiếm hư­ởng số tiền trốn thuế là 11.310.000.000 đồng, Vũ Hư­ng Bình chiếm hư­ởng số tiền trốn thuế là 1.200.000.000 đồng.
Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ số tiền 8.069.223.322 đồng. Trong đó: Vũ Hư­ng Bình nộp 7.433.823.322  đồng, Nguyễn Thanh Hải nộp 35.000.000 đồng, Nguyễn Phát Đạt nộp 594.100.000 đồng.
Chị Vũ Thị Thanh Loan và anh Nguyễn Văn Liêm đ­ược Mai Quý Cường thuê đứng tên làm giám đốc, chị Loan đ­ược trả công 5.000.000 đồng, anh Liêm đ­ược trả công 1.300.000 đồng (Chị Loan và anh Liêm đã nộp lại số tiền đã nhận).
Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 3 Điều 161; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Mai Quý Cư­ờng 05(năm) tù về tội “Trốn thuế”.
Áp dụng khoản 3 Điều 161; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt Vũ Hư­ng Bình 30 (ba mư­ơi) tháng tù về tội “Trốn thuế”, như­ng cho h­ưởng án treo, thời gian thử thách là 54 tháng.
Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt Nguyễn Thanh Hải 06 tháng 25 ngày tù; Nguyễn Phát Đạt đ­ược miễn hình phạt, đều về tội “Trốn thuế”.
Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án hình sự sơ thẩn nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do:
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo Mai Quý Cư­ờng, Vũ H­ưng Bình, Nguyễn Phát Đạt và Nguyễn Thanh Hải về tội “Trốn thuế” là có căn cứ. Tuy nhiên, với vai trò, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như nhân thân người phạm tội thì việc kết án Mai Quý Cường và Vũ Hưng Bình với mức hình phạt như nêu trên là nhẹ.
Tòa án cấp sơ thẩm đã sai lầm nghiêm trọng khi xác định nguyên đơn dân sự. Trong vụ án này, các bị cáo nhập khẩu ô tô, làm thủ tục hải quan, khai báo thuế qua Hải quan cửa khẩu Cảng Sài Gòn KV3 thuộc  Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh và Hải quan cửa khẩu Cảng Phú Mỹ thuộc Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. Theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Luật quản lý thuế thì: “…Tờ khai hải quan đ­ược sử dụng làm tờ khai thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”; tại điểm b khoản 1 Điều 44 Luật quản lý thuế quy định địa điểm nộp thuế tại cơ quan quản lý thuế nơi tiếp nhận hồ sơ khai thuế. Nh­ư vậy, trong trư­ờng hợp này cơ quan có thẩm quyền thu thuế nhập khẩu là Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh vì thế các cơ quan này là nguyên đơn dân sự trong vụ án. Việc Toà án cấp sơ thẩm xác định Cục thuế thành phố Hà Nội là nguyên đơn dân sự và quyết định buộc các bị cáo truy nộp số tiền trốn thuế cho Cục thuế Hà Nội là không đúng.
KẾT LUẬN

Do tính chất và đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế luôn bị chi phối bởi chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, vì thế qua thực tiễn xét xử và thực tiễn nghiên cứu cho thấy các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những loại tội phức tạp, việc định tội danh, đánh giá chứng cứ khi nghiên cứu, xét xử  là một công tác khó không chỉ đối với thẩm tra viên, chuyên viên mà đối với cả những thẩm phán có kinh nghiệm. Trên thực tế, công tác xét xử loại tội phạm nói trên cũng đã có những tiến bộ đáng kể thể hiện sự nỗ lực của những người làm công tác bảo vệ pháp luật trong thời gian qua. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng việc áp dụng pháp luật và thi hành pháp luật đối với loại tội phạm trên cũng vẫn còn những hạn chế cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm, nhất là khi BLHS 2009 có sửa đổi, bổ sung về một số tội thuộc chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Bên cạnh việc nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của các cán bộ xét xử thì việc cần tăng cường hướng dẫn các loại tội phạm này cũng là một phương thức hỗ trợ đắc lực tránh được việc hiểu không thống nhất khi áp dụng pháp luật. Do đó, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự về quản lý kinh tế, về công tác xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm nói riêng hay các tội phạm khác và các cấp xét xử khác được quy định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nói chung cần phải được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để qua đó nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng ngừa phòng chống tội phạm và nâng cao hiệu quả của công tác xét xử nói chung./.

Tags: ,

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn

Nội quy! Đóng lại Cám ơn đã đọc bài viết!
- Từ ngày 14/08/2011 để tránh Spam do vậy Comment nặc danh xẽ bị khóa
- Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu để mọi người dễ đọc hơn!
- Mọi thắc mắc, gợi ý hoặc bình luận xin chia sẻ bên dưới hoặc Gửi thư hay Báo lỗi
- Các bạn có thể mã hóa Code TẠI ĐÂY
Thank You!
More →
Chữ đậm Chữ nghiêng Chữ nghiêng 2 Chèn Link Chèn Link Mã hóa code Help ?Nhấn vào biểu tượng hoặc kiểu chữ hoặc chèn link sau đó nhấn nút Chọn rồi copy (Ctrl + C) để paste (Ctrl + V) vào khung viết bình luận. Mã hóa code nếu bạn muốn đưa code vào bình luận.

Chọn Xóa

nhãn totunghinhsu

THÔNG TIN TỐ TỤNG HÌNH SỰ