Đang tải dữ liệu...
Kỹ năng đặc thù trong thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại - Thẩm Phán 13 Lớp B (thamphan13) /* Menu Horizontal top*/

Tạo banner chạy dọc hai bên

hinhlop1

hinhlop


Download Hình

Tiện ích bài đăng có ảnh thumbnail chạy ngang

Kỹ năng đặc thù trong thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại

bookmark and share |

Bài đăng ngày:8 thg 1, 2012



Kỹ năng đặc thù trong thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại


Về nguyên tắc, việc thụ lí vụ án kinh doanh, thương mại cũng giống như các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quan hệ pháp luật tranh chấp mà việc thụ lí giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại có những lưu ý riêng như sau:
1. Nghiên cứu đơn khởi kiện và giấy tờ kèm theo đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Để thực hiện quyền khởi kiện, trước hết đương sự phải nộp đơn khởi kiện đến Toà án có thẩm quyền. Đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại theo quy định chung về nội dung và hình thức đơn khởi kiện quy định tại Điều 164 BLTTDS. Tuy nhiên, nội dung và hình thức đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại có những điểm riêng cần chú ý như sau:
Nội dung tranh chấp phải được phản ánh rõ ràng trong đơn khởi kiện, đặc biệt đối với những tranh chấp có quy định bên bị vi phạm phải thực hiện việc khiếu nại trước khi khởi kiện ra toà án thì trong đơn kiện phải thể hiện rõ các bên tranh chấp đã khiếu nại với nhau hay chưa.
Những yêu cầu của nguyên đơn trong đơn khởi kiện phải cụ thể, rõ ràng. Yêu cầu của đương sự trong các vụ án kinh doanh, thương mại là các yêu cầu tính được bằng tiền và  tranh chấp về kinh doanh, thương mại không được miễn tạm ứng án phí. Do đó, giá trị tranh chấp giữa các bên là cơ sở để toà án tính tạm ứng án phí. Trên thực tế, nhiều đơn khởi kiện gửi đến Toà án đưa ra yêu cầu bằng ngoại tệ hoặc chỉ đưa ra mức lãi suất hoặc chỉ đưa ra số tiền là phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại. Trong những trường hợp này, Toà án phải yêu cầu đương sự quy đổi ra tiền Việt nam và có cách tính cụ thể để ra số tiền phạt hợp đồng, tiền bồi thường thiệt hại.
Về hình thức đơn khởi kiện đối với các vụ án kinh doanh, thương mại cần lưu ý đến người đứng tên trong đơn kiện. Đương sự trong các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường là các chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân. Đó là công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã. Người kí đơn khởi kiện trong trường hợp này là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Riêng đối với công ty hợp danh, các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp luật của công ty nhưng Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc là đại diện cho công ty với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trước Toà án. Do đó, Chủ tịch Hội đồng thành viên  có quyền kí đơn khởi kiện. Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp là người kí đơn khởi kiện. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân, cũng có thể uỷ quyền cho người khác kí đơn kiện và tham gia tố tụng tại Toà án. Ngoài ra, đương sự là công ty thì đơn kiện phải có dấu của công ty vào cuối đơn. Ví dụ, vụ án do đơn vị phụ thuộc của pháp nhân khởi kiện, đơn kiện do giám đốc chi nhánh không được uỷ quyền hợp pháp kí tên và đóng dấu chi nhánh. Trong những trường hợp như vậy, Toà án phải hướng dẫn cụ thể cho đương sự để sửa lại đơn khởi kiện theo đúng yêu cầu hoặc xuất trình giấy uỷ quyền hợp lệ.
Kèm theo đơn khởi kiện, đương sự phải nộp kèm theo những giấy tờ, tài liệu sau:
(1) Đối với tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình: Văn bản hợp đồng mà các bên đã kí kết, các phụ lục hợp đồng (nếu có); Hoá đơn, chứng từ, giấy biên nhận, phiếu thu...liên quan đến việc giao nhận hàng hoá, cung ứng dịch vụ và thanh toán; Biên bản thanh lí hợp đồng; Công văn, giấy tờ, khiếu nại hoặc biên bản làm việc giữa các bên...
- Các giấy tờ tài liệu nhằm xác định tư cách pháp lí của người khởi kiện và người kí đơn kiện: Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh- đầu tư (nếu có); Điều lệ hoạt động của pháp nhân; Quyết định bổ nhiệm hoặc biên bản bầu người đại diện theo pháp luật, giấy uỷ quyền...
(2) Đối với tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức công ty
-  Các giấy tờ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình: Điều lệ hoạt động của công ty; Danh sách thành viên (đối với công ty TNHH, công ty hợp danh), danh sách cổ đông sáng lập (đối với công ty cổ phần), sổ đăng kí thành viên, sổ đăng kí cổ đông; Biên bản bầu chức danh quản lí công ty; Biên bản định giá tài sản góp vốn của thành viên; Biên bản cuộc họp của cơ quan quản lí công ty liên quan đến nội dung tranh chấp; Các quyết định quản lí công ty liên quan đến nội dung tranh chấp...
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách pháp lí của người khởi kiện và người kí đơn kiện (nếu có).

2. Xác định tư cách người khởi kiện trong các vụ án kinh doanh, thương mại
Trước hết, Thẩm phán phải xem xét tư cách chủ thể pháp lí của người khởi kiện. Trong các vụ án phát sinh từ tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh, người khởi kiện thường là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Đó là công ty nhà nước, Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh.
Có nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể thành lập các chi nhánh, đội sản xuất, phân xưởng, văn phòng đại diện... Đây chỉ là các đơn vị phụ thuộc của pháp nhân và không có tư cách chủ thể pháp lí độc lập để tham gia quan hệ tố tụng. Khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do các đơn vị phụ thuộc kí kết thì pháp nhân có đơn vị phụ thuộc sẽ thực hiện quyền khởi kiện.
Thứ hai, Thẩm phán phải xem người khởi kiện có tư cách khởi kiện hay không
Quan hệ kinh doanh rất phức tạp và đa dạng, tham gia quan hệ có thể có nhiều chủ thể khác nhau. Để xác định chủ thể nào có quyền khởi kiện và chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ, Thẩm phán phải xác định tranh chấp kinh doanh, thương mại đó phát sinh từ quan hệ pháp luật nào. Ví dụ như trong quan hệ đại diện cho thương nhân, quan hệ uỷ thác mua bán hàng hoá.
Thứ ba, Thẩm phán phải xác định người khởi kiện có bị mất quyền khởi kiện không. Trong một số quan hệ pháp luật về kinh doanh, thương mại yêu cầu các bên tranh chấp phải thực hiện việc khiếu nại trong thời hạn khiếu nại, nếu không khiếu nại sẽ bị mất quyền khởi kiện. Ví dụ như trong quan hệ hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ nội địa, bằng đường hàng không.
3. Xác định thẩm quyền giải quyết  vụ án kinh doanh, thương mại
Để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án trong các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, trước hết Toà án phải xác định tranh chấp phải thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ thống Toà án nhân dân hay thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương mại.
Cơ sở để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án và trọng tài là thoả thuận trọng tài giữa các bên. Điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định: “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lí, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu”.
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản trong đó, thừa nhận các hình thức văn bản như điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác trong đó thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài. Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một thoả thuận riêng biệt.
Khi quyết định thụ lí những tranh chấp kinh doanh, thương mại mà trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên có thoả thuận trọng tài, Thẩm phán cần phải xem xét thoả thuận trọng tài có bị vô hiệu hay không. Thoả thuận trọng tài vô hiệu trong những trường hợp sau đây:
(1) Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại;
(2) Người kí thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền kí kết theo quy định của pháp luật;
(3) Một bên kí kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
(4) Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc không quy định rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung;
(5) Thoả thuận trọng tài không được lập dưới hình thức văn bản;
(6) Bên kí kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu;
Thẩm phán cần xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài một cách độc lập với hiệu lực của quan hệ pháp luật đang tranh chấp. Việc thay đổi, gia hạn, huỷ bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài.
Khi xem xét thoả thuận trọng tài vô hiệu, Thẩm phán cũng cần chú ý một số trường hợp sau đây theo hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003:
Trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do người kí thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền kí kết theo quy định của pháp luật. Khi phát sinh tranh chấp mà một bên có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án yêu cầu người có thẩm quyền kí kết thoả thuận trọng tài cho biết ý kiến bằng văn bản có chấp nhận thoả thuận trọng tài do người không có thẩm quyền kí kết trước đó hay không. Nếu họ chấp nhận thì thoả thuận trọng tài không vô hiệu và tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
Trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do người kí thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Toà án phải yêu cầu đương sự xuất trình giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Toà án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do không quy định hoặc không quy định rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Đây là trường hợp theo thoả thuận trọng tài không thể xác định được đối tượng tranh chấp cụ thể là gì hoặc không thể xác định được Hội đồng Trọng tài nào, Trung tâm Trọng tài nào của Việt nam có thẩm quyền giải quyết này, nếu sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung.
Ví dụ: Trong thoả thuận trọng tài của các bên có ghi: “Trong trường hợp có tranh chấp, nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì yêu cầu Trọng tài giải quyết theo quy định của pháp luật Việt nam”. Thoả thuận trọng tài này vô hiệu do các bên không rõ việc giải quyết tranh chấp do Hội đồng trọng tài các bên thành lập hay do Trọng tài viên duy nhất hay do Hội đồng trọng tài của một Trung tâm trọng tài cụ thể của Việt nam, trừ trường hợp các bên có thoả thuận bổ sung về việc xác định Hội đồng trọng tài cụ thể của Việt nam có thẩm quyền giải quyết.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 thì trong một số trường hợp, tuy các bên có thoả thuận trọng tài có hiệu lực nhưng tranh chấp vẫn thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân. Đó là các trường hợp: Khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết hoặc khi được Toà án thông báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp mà trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của nguyên đơn hoặc thông báo của Toà án mà bị đơn không phản đối (được coi là các bên có thoả thuận mới lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp thay cho thoả thuận trọng tài) hoặc bị đơn có phản đối nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh là trước đó các bên đã có thoả thuận trọng tài (trường hợp này được coi là không có thoả thuận trọng tài); Khi có quyết định của Toà án huỷ quyết định trọng tài, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Sau khi xác định được tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ thống Toà án nhân dân, Thẩm phán phải làm rõ tranh chấp giữa các bên có phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại không. Điều 29 BLTTDS có liệt kê 4 nhóm tranh chấp được coi là tranh chấp kinh doanh, thương mại.
(1) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Theo quy định này, hai bên tranh chấp đều phải có đăng kí kinh doanh và  có mục đích lợi nhuận.  Cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền đăng kí kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh- đầu tư theo quy định của pháp luật. Cụ thể là cá nhân, hộ gia đình có đăng kí kinh doanh (được gọi là hộ kinh doanh cá thể), các loại hình doanh nghiệp (theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005), hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (theo quy định của Luật hợp tác xã). Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó.
(2) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Trong tranh chấp này, không đòi hỏi các bên đương sự phải có đăng kí kinh doanh. Tuy nhiên, Thẩm phán cần lưu ý các bên tranh chấp đều phải có mục đích lợi nhuận; nếu chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó là tranh chấp dân sự.
(3) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến hoạt động, giải thể, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức tổ chức công ty.
Đối với nhóm tranh chấp này, Thẩm phán cần lưu ý các bên tranh chấp có thể là công ty với thành viên công ty ; Thành viên công ty với thành viên công ty; Thành viên công ty với người khác không phải là thành viên công ty. Nội dung của các tranh chấp này liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
(4) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại
Căn cứ để phân định thẩm quyền theo cấp xét xử đối với các tranh chấp về kinh doanh, thương mại phụ là phụ thuộc vào tính chất của tranh chấp và đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần thiết phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự quán của Việt nam hoặc cho toà án nước ngoài. Theo đó, thì chỉ những tranh chấp cụ thể quy định tại Khoản 1 Điều 29 thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện. Đây là những tranh chấp diễn ra phổ biến trên thực tế và tính phức tạp không cao.
Cuối cùng, để xác định tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án địa phương mình hay không, Thẩm phán phải vận dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Việc xác định này cũng giống như trong các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình và lao động.
4. Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Đối với những tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm. (Khoản 1 Điều 159 BLTTDS). Do đặc thù của một số quan hệ pháp luật kinh doanh mà luật nội dung có quy định về thời hiệu khởi kiện và cách tính thời hiệu khởi kiện khác. Trong trường hợp này, Toà án phải áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện và cách tính thời hiệu khởi kiện theo quy định của luật nội dung đó để xác định đơn kiện có được nộp trong thời hiệu khởi kiện không.
Các tranh chấp thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 quy định thời hiệu khởi kiện là 2 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Xác định ngày bắt đầu thời hiệu khởi kiện là ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm phụ thuộc vào từng tranh chấp. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các Thẩm phán để xem xét có thụ lí đơn kiện hay không. Các tranh chấp liên quan đến số lượng, chất lượng hàng hoá thì ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm được hiểu là ngày giao nhận hàng, trường hợp hàng hoá có bảo hành là ngày hết thời hạn bảo hành đối với tranh chấp về chất lượng hàng hoá. Các tranh chấp khác liên quan đến nghĩa vụ phải hoàn thành theo hợp đồng thì ngày bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là ngày bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ hoặc trường hợp hàng hoá có bảo hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo hành.
Các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận cũng có quy định riêng về thời hiệu khởi kiện. Xuất phát từ đặc thù quan hệ bảo hiểm giữa các bên là thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đối với các bên tương đối dài. Theo đó, Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm có quy định thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm là 3 năm kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp.
Tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hành khách cũng là một tranh chấp khá phổ biến hiện nay khi điều kiện giao lưu thương mại ngày một phát triển. Bộ luật hàng hải năm 2005 có quy định riêng về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Theo đó, thời hiệu khởi kiện về tổn thất hàng hoá vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là 1 năm, kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng. Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá theo chuyến là 2 năm kể từ ngày người khởi kiện biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm phạm. Luật giao thông đường thuỷ nội địa và Luật hàng không dân dụng lại có quy định về việc các bên phải khiếu nại với nhau trước khi khởi kiện ra Toà án. Nên trong vụ án phát sinh từ những tranh chấp này, Thẩm phán phải lưu ý các bên tranh chấp đã khiếu nại với nhau hay chưa và có trong thời hạn khiếu nại theo quy định của pháp luật hay không. Thời hạn khiếu nại đối với yêu cầu bồi thường hàng hoá trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá đường thuỷ nội địa là 20 ngày kể từ ngày giao hàng. Thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết yêu cầu đòi bồi thường. Đối với hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không, thời hạn khiếu nại là 14 ngày kể từ ngày nhận hàng đối với trường hợp thiếu hụt hàng hoá, 21 ngày đối với trường hợp mất mát hàng hoá. Thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày hàng hoá được vận chuyển tới địa điểm đến hoặc lẽ ra tàu bay phải đến địa điểm đến hoặc từ ngày việc vận chuyển bị đình chỉ.
Trong tố tụng, muốn xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong kinh doanh thương mại thì căn cứ vào Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự, bao gồm: Tranh chấp phát sinh trong họat động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, họat động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty và các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Để ghi đúng tên của vụ việc thì tốt nhất là đọc kỹ đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp rồi căn cứ câu chữ trong Điều 29 (Khoản, Điểm) để lựa chọn và đặt tên gọi vụ án một cách thích hợp.
Số hiệu:
04/2003/NQ-HĐTP
Tiêu đề:
NGHỊ QUYẾT 04/2003/NQ-HĐTP CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN-TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
Loại văn bản:
Nghị quyết
Nơi ban hành:
Toà án nhân dân tối cao
Người ký:
Nguyễn Văn Hiện
Ngày ban hành:
27/05/2003 - Ngày hiệu lực: 11/07/2003
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
SỐ 04/2003/NQ-HĐTP NGÀY 27 THÁNG 5 NĂM 2003 HƯỚNG DẪN
ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, phù hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh trọng điều kiện hiện nay;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ:
I. VIỆC XÁC ĐỊNH HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÔ HIỆU
1. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (sau đây viết tắt là Pháp lệnh HĐKT) thì hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ khi "một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng". Khi áp dụng quy định này cần phân biệt như sau:
a. Nếu khi ký kết hợp đổng kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh mà trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thoả thuận trong hợp đồng, thì hợp đồng kinh tế này thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và bị coi là vô hiệu toàn bộ.
Ví dụ: Trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty A chưa có đăng ký ngành nghề xây dựng công nghiệp, nhưng Công ty A đã ký hợp đồng kinh tế về việc nhận thầu thi công xây dựng nhà xưởng cho Công ty B. Trong quá trình thi công, giữa các bên có phát sinh tranh chấp từ việc thực hiện hợp đồng và một trong các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết. Khi giải quyết vụ án này, nếu có đủ căn cứ cho thấy đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp Công ty A vẫn chưa được đăng ký bổ sung ngành nghề xây dựng công nghiệp thì Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT tuyên bố hợp đồng kinh tế này vô hiệu toàn bộ và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu theo quy định tại Điều 39 Pháp Lệnh HĐKT.
b. Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh, nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng đã có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thoả thuận trong hợp đồng thì hợp đồng kinh tế này không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và do đó không bị coi là vô hiệu toàn bộ.
Ví dụ: Nếu trong ví dụ tại điểm a mục 1 này khi giải quyết vụ án, nếu có đủ căn cứ cho thấy đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp Công ty A đã được đăng ký bổ sung ngành nghề xây dựng công nghiệp thì hợp đồng kinh tế này không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và không bị coi là vô hiệu toàn bộ.
2. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT thì hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ khi: "Người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền...".
Để phù hợp với tinh thần quy định tại Điều 154 Bộ luật Dân sự thì hợp đồng kinh tế không bị coi là vô hiệu toàn bộ, nếu người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, người mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế đó (sau đây gọi tắt là người có thẩm quyền) chấp thuận. Được coi là người có thẩm quyền chấp thuận nếu người đó đã biết hợp đồng kinh tế đã được ký kết mà không phản đối.
Được coi là người có thẩm quyền đã biết mà không phản đối khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Sau khi hợp đồng kinh tế đã được ký kết, có đấy đủ căn cứ chứng minh rằng người ký kết hợp đồng kinh tế đã báo cáo với người có thẩm quyền biết hợp đồng kinh tế đã được ký kết (việc báo cáo đó được thể hiện trong biên bản họp giao ban của Ban giám đốc, biên bản cuộc họp của Hội đồng thành viên hay Hội đồng quản trị, có nhiều người khai thống nhất về việc báo cáo là có thật...).
b. Người có thẩm quyền thông qua các chứng từ, tài liệu về kế toán, thống kê biết được hợp đồng kinh tế đó đã được ký kết và đang được thực hiện (đã ký trên hoá đơn, phiếu xuất kho, các khoản thu chi của việc thực hiện hợp đồng kinh tế hoặc trên sổ sách kế toán của pháp nhân...).
c. Người có thẩm quyền có những hành vi chứng minh có tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh theo thoả thuận của hợp đồng kinh tế (ký các văn bản xin gia hạn thời gian thanh toán, cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, ký các văn bản duyệt thu, chi hay quyết toán đối chiếu công nợ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng kinh tế...).
d. Người có thẩm quyền đã trực tiếp sử dụng các tài sản, lợi nhuận có được do việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế mà có (sử dụng xe ôtô để đi lại, để kinh doanh mà biết do việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế đó mà có; sử dụng trụ sở làm việc do việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế thuê tài sản...).
3. Đối với hợp đồng kinh tế mà trong nội dung của hợp đồng các bên có thoả thuận giá cả, thanh toán bằng ngoại tệ cần phân biệt như sau:
a. Nếu trong nội dung của hợp đồng kinh tế các bên có thoả thuận giá cả, thanh toán bằng ngoại tệ trong khi đó một hoặc các bên không được phép thanh toán bằng ngoại tệ, thì hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT (các bên vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý ngoại tệ). Trong trường hợp này nếu một hoặc các bên có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo thủ tục chung.
b. Nếu trong nội dung của hợp đồng kinh tế các bên có thoả thuận giá cả, thanh toán bằng ngoại tệ trong khi đó một hoặc các bên không được phép thanh toán bằng ngoại tệ, nhưng sau đó các bên có thoả thuận thanh toán bằng Đồng Việt Nam hoặc trong nội dung của hợp đồng kinh tế các bên thoả thuận sử dụng ngoại tệ làm đồng tiền định giá (để bảo đảm ổn định giá trị của hợp đồng) nhưng việc thanh toán là bằng Đồng Việt Nam, thì hợp đồng kinh tế không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và do đó không bị coi là vô hiệu toàn bộ.
II. VIỆC XỬ LÝ HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÔ HIỆU
Điểm a khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh HĐKT quy định: "Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, nếu tài sản đó không bị tịch thu theo quy định của pháp luật". Khi áp dụng quy định này cần phân biệt như sau:
1. Đối với tài sản là động sản
a. Hoàn trả được tài sản đã nhận là trường hợp bên đã nhận được tài sản từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế chưa khai thác, sử dụng và vẫn bảo quản giữ nguyên được chất lượng, chức năng, công dụng của tài sản đó. Không chấp nhận việc hoàn trả tài sản tuy đúng chủng loại, chất lượng, chức năng, công dụng nhưng không phải chính là tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác không trái pháp luật.
b. Không thể hoàn trả được tài sản đã nhận bằng hiện vật khi tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế thuộc một trong các trường hợp sau đây:
b.1. Đã được đưa vào khai thác, sử dụng;
b.2. Đã bị mất mát, hư hỏng;
b.3. Đã được chuyển giao cho người khác và đã được đưa vào khai thác, sử dụng hoặc bị mất mát, hư hỏng hoặc quá thời hạn sử dụng;
b.4. Không còn giữ được chất lượng, chức năng, công dụng của tài sản mà do lỗi của bên nhận tài sản (ví dụ: người nhận được tài sản không bảo quản theo đúng quy định);
b.5. Đã bị mất mát một hoặc một số bộ phận nào đó của tài sản mà không thể khôi phục lại được theo nguyên trạng khi nhận.
c. Trong trường hợp không thể hoàn trả được tài sản đã nhận bằng hiện vật được hướng dẫn tại điểm b mục 1 này thì bên nhận tài sản chỉ phải thanh toán bằng tiền cho bên giao tài sản theo giá đã được các bên thoả thuận, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác không trái pháp luật.
d. Trong trường hợp hoàn trả tài sản là ngoại tệ đã nhận thì bên nhận ngoại tệ phải hoàn trả cho bên giao số ngoại tệ đã nhận được quy đổi ra tiền Đồng Việt Nam theo tỷ giá mua vào của ngoại tệ với Đồng Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm nhận ngoại tệ đã được các bên thoả thuận mà không có tính lãi, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác không trái pháp luật.
2. Đối với tài sản là bất động sản hoặc quyền sử dụng đất
Về nguyên tắc chung, việc xử lý tài sản là bất động sản hoặc quyền sử dụng đất là buộc bên đã nhận được tài sản từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế phải hoàn trả cho bên giao tài sản.
Trong trường hợp bên đã nhận được tài sản đã tháo dỡ, sửa chữa, làm thêm mới, đầu tư làm tăng giá trị của tài sản đó, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, tháo dỡ hoặc thanh toán tiền cho nhau, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác không trái pháp luật.
3. Trách nhiệm chịu thiệt hại do hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ
Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh HĐKT thì trong trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ, thiệt hại phát sinh các bên phải chịu mà không xem xét đến mức độ lỗi của các bên.
III. VIỆC ÁP DỤNG ĐIỂM 3 ĐIỀU 32 PHÁP LỆNH
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án kinh tế khi: "Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp là đương sự của vụ án". Khi áp dụng quy định này cần chú ý:
1. Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án kinh tế với lý do đã có quyết định của Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nhưng sau đó Toà án có quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu đương sự khởi kiện lại vụ án kinh tế mà họ đã khởi kiện trước đó và bị đình chỉ, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung.
2. Thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này là sáu tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về thời hiệu khởi kiện.
Đối với trường hợp Toà án đã có quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thì thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành.
IV. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
1. Nghị quyết này được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 27 tháng 5 năm 2003 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được ban hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được hướng dẫn trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.
2. Đối với những vụ án kinh tế mà Toà án đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thảm, tái thẩm, thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.
3. Đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác.

Tòa Án Nhân Dân Tối Cao
Số: 01 /2005/NQ-HĐTP  
         Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
Hà Nội, ngày 31 tháng 3 năm 2005
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung”
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

_______________
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sau đây viết tắt là BLTTDS);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ
I. THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN.
1. Về nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các vụ việc dân sự.
1.1. Căn cứ vào Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Chương III Phần thứ nhất của BLTTDS, nhiệm vụ, quyền hạn của Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong tố tụng dân sự được thực hiện như sau:
b. Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận;
3. Về quy định tại Điều 29 của BLTTDS.
3.1. Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật; cụ thể như sau:
a. Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác (theo Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Chính phủ về đăng ký kinh doanh);
b. Doanh nghiệp (theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp);
c. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam);
d. Doanh nghiệp nhà nước (theo Luật Doanh nghiệp nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp nhà nước);
đ. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (theo Luật Hợp tác xã và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Hợp tác xã);
e. Cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh.
3.2. Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó.
3.3. Hoạt động kinh doanh, thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại.
Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn A được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực may mặc. Hoạt động của Công ty A không chỉ giới hạn ở việc may sản phẩm là hàng dệt may để phục vụ thị trường mà còn bao gồm cả hành vi mua nguyên vật liệu về để sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, thuê xe ô tô để đưa công nhân đi làm, đi nghỉ hàng năm theo chế độ hoặc mua một số ti vi để cho công nhân giải trí sau giờ làm việc...
3.4. Đối với các tranh chấp quy định tại khoản 2 Điều 29 của BLTTDS thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại; nếu chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận, thì tranh chấp đó là tranh chấp về dân sự quy định tại khoản 4 Điều 25 của BLTTDS.
3.5. Về các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty quy định tại khoản 3 Điều 29 của BLTTDS cần phân biệt như sau:
a. Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty là các tranh chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty (thông thường phần vốn góp đó được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị quyền sở hữu công nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà công ty đã ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
b. Các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau là các tranh chấp giữa các thành viên của công ty về việc trị giá phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty của thành viên công ty đó cho người khác không phải là thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng cổ phiếu không ghi tên và cổ phiếu có ghi tên; về mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành và trái phiếu của công ty cổ phần hoặc về quyền sở hữu tài sản tương ứng với số cổ phiếu của thành viên công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của công ty; về việc thanh lý tài sản , phân chia nợ giữa các thành viên của công ty trong trường hợp công ty bị giải thể, về các vấn đề khác giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
c. Khi thực hiện hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 3.5 này, nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân sự (ví dụ: Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao động, về hợp đồng vay, mượn tài sản ...) thì tranh chấp đó không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 3 Điều 29 của BLTTDS. Tuỳ từng trường hợp cụ thể để xác định đó là tranh chấp về dân sự hay tranh chấp về lao động.


 

Tags:

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn

Nội quy! Đóng lại Cám ơn đã đọc bài viết!
- Từ ngày 14/08/2011 để tránh Spam do vậy Comment nặc danh xẽ bị khóa
- Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu để mọi người dễ đọc hơn!
- Mọi thắc mắc, gợi ý hoặc bình luận xin chia sẻ bên dưới hoặc Gửi thư hay Báo lỗi
- Các bạn có thể mã hóa Code TẠI ĐÂY
Thank You!
More →
Chữ đậm Chữ nghiêng Chữ nghiêng 2 Chèn Link Chèn Link Mã hóa code Help ?Nhấn vào biểu tượng hoặc kiểu chữ hoặc chèn link sau đó nhấn nút Chọn rồi copy (Ctrl + C) để paste (Ctrl + V) vào khung viết bình luận. Mã hóa code nếu bạn muốn đưa code vào bình luận.

Chọn Xóa

nhãn totunghinhsu

THÔNG TIN TỐ TỤNG HÌNH SỰ