Chuyên đề 4: LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VÀ VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH![](https://lh3.googleusercontent.com/-YswzdowExso/UgPEetJr9yI/AAAAAAAABOc/WVhFFgXuIhI/s15-no/005%255B1%255D.gif)
Bài đăng ngày:29 thg 5, 2013
PHẦN THỨ NHẤT:
NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1. Thực trạng công tác thi hành án hình sự trước
khi ban hành Luật Thi hành án hình sự
Thi hành án
hình sự liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xác định thi hành án hình sự
là công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành văn bản
quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như: Pháp lệnh thi hành án phạt
tù năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007; Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003.
Trên cơ sở pháp lý đó, trong thời gian qua hoạt động thi hành án hình sự đã được
tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh, khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trước
yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp
luật về thi hành án hình sự đã bộc lộ những hạn chế, không được quy định thống
nhất mà nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau. Điều này gây khó khăn cho thực
tiễn thi hành án hình sự. Công tác thi hành án hình sự còn gặp nhiều khó khăn. Báo cáo năm 1994-1995 của Tòa án nhân
dân tối cao trước Quốc hội đã thừa nhận có hơn 8.000 người bị án không rõ vì lý
do gì vẫn sống ngoài vòng pháp luật, chưa bị bắt đi thụ hình. Như tại thành phố
Hồ Chí Minh: năm 1999 số lượng người phải thụ án là 13.875 người, nhưng chỉ giải
quyết được 10.691 người, còn 3.184 người phải thụ án chưa giải quyết; năm 2000
có 13.521 người phải thụ án, nhưng chỉ mới giải quyết được 10.767 người, còn
2.754 người phải thụ án chưa bị bắt đi cải tạo ở các trại giam.
Những nguyên
nhân chủ yếu làm giảm hiệu quả của hoạt động thi hành án hình sự:
1, Ở giai đoạn đưa bản án ra thi hành còn chậm trễ ở khâu thủ tục giấy tờ
hành chính, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan xét xử và cơ quan thi hành
án. Đây là nguyên nhân chính để tình trạng rất nhiều bị án có án phạt tù vẫn
đang còn ở ngoài xã hội, tạo ra mối nghi
ngờ của nhân dân về tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật, đồng thời tạo
ra sự đe dọa mất an ninh và trật tự xã hội.
2, Việc
quản lý Nhà nước về thi hành án thiếu tập trung do công tác thi hành án còn ở
nhiều cơ quan chức năng khác nhau.Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt
tù thì Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác thi hành án trong phạm
vi cả nước. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ quản lý công tác thi hành
án phạt tù và tổ chức công tác thi hành án phạt tù. Tuy vậy trong thực tế công
tác thi hành án theo pháp luật hiện hành còn được giao cho nhiều cơ quan khác nữa
cùng tham gia, thực hiện như Tòa án nhân dân, UBND các cấp, cơ quan, tổ chức
nơi người bị kết án cư trú, cơ quan y tế thi hành quyết định của Tòa án về bắt
buộc chữa bệnh nhưng lại không có một cơ quan chuyên trách nào được giao nhiệm
vụ theo dõi, quản lý việc thi hành đó. Do vậy, hiệu lực của các bản án, và quyết
định của Tòa án trong thực tế không có tác dụng cao, không kết hợp thi hành án
phạt tù với các hình phạt bổ sung khác nên công tác thi hành án và mục đích của
hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác không đạt được kết quả.
3, Việc theo
dõi và quản lý phạm nhân còn chồng chéo, kém hiệu quả, trên thực tế đã tồn tại
tình trạng là sau khi ra quyết định thi hành án phạt tù, Tòa án hoàn toàn không
thể biết rõ được phạm nhân được đưa đi cải tạo ở đâu, bởi vì trên cơ sở tiếp nhận
bị án, cơ quan thi hành án của Bộ Công an lập danh sách bị án, ra quyết định
đưa họ đi cải tạo tại các trại cải tạo do mình quản lý trên cả nước, đến khi thực
hiện thủ tục xét giảm án, tha tù (quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 61 của Bộ
luật hình sự 1999) thì về nguyên tắc - theo quy định tại khoản 1, Điều 238 Bộ
luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN ngày 15-08-1989 của
TATC-VKSTC-BNV việc xét giảm thời hạn thi hành do Tòa án nhân
dân cấp tỉnh nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù căn cứ vào hồ sơ đề nghị
của Trại quản lý và cải tạo phạm nhân, mà có thể Tòa án, Viện kiểm sát nơi này
hoàn toàn không thể biết được bị án này đã chấp hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ
khác do Tòa án nơi đã tuyên án hoặc ra quyết định thi hành án, đồng thời luật
cũng không có quy định là gửi bản sao quyết định giảm án, tha tù cho các Tòa
án, Viện kiểm sát nơi này biết .
4, Thông tư
liên ngành số 04-89/TTLN chỉ quy định 02 điều kiện để xét giảm là thời hạn chấp
hành hình phạt và đã quyết tâm cải tạo tốt như tích cực hối lỗi, tích cực lao động,
học tập, nghiêm chỉnh chấp hành chế độ nội quy của Trại nhưng không quy định một
số điều kiện về việc thực hiện trách nhiệm khác trong bản án đã tuyên. Điều này
dẫn đến tình trạng là những người được xét giảm án, tha tù trước thời hạn, sau
khi ra trại, đã không nghiêm chỉnh thi hành các nghĩa vụ bồi thường thiệt hại,
trách nhiệm dân sự trong bản án hình sự, chưa thi hành các hình phạt tiền…, coi
như việc mình đi tù đã thay cho việc thực hiện các nghĩa vụ đó, vì thế đã làm
cho lòng tin của nhân dân bị suy giảm phần nào.
5, Việc thực hiện
chế độ, chính sách đối với người thụ án tại các trại giam còn có nhiều hạn chế,
nhiều mục tiêu và nguyên tắc đã được quy định tại Pháp lệnh Thi hành án phạt tù
ngày 08-03-1993 được sửa đổi bổ xung năm 2007 và Nghị định số
60/CP ngày 16-9-1993 của Chính phủ ban hành quy chế trại giam vẫn chưa được thực
hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng ngược đãi phạm nhân, nạn “đại bàng” hành hạ bạn
tù trong các trại giam; hoặc chưa phân biệt chế độ giam giữ, cải tạo, chế độ ưu
tiên đối với phạm nhân là người chưa thành niên, người già, phụ nữ…
Các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thi
hành án hình sự mới chỉ quan tâm nhiều đến thi hành hình phạt tù, tử hình, trục
xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến việc thi hành các hình phạt khác; chưa có tổ
chức bộ máy chuyên trách quản lý thống nhất việc thi hành án hình sự; đội ngũ
cán bộ làm nhiệm vụ thi hành án hình sự còn thiếu về số lượng và chưa bảo đảm về
chất lượng, chế độ chính sách còn chưa bảo đảm; cơ sở vật chất, kinh phí cho
công tác này chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Tình hình nêu
trên đặt ra yêu cầu hoàn thiện một bước pháp luật về thi hành án hình sự để điều
chỉnh cho phù hợp, đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn.
2. Sự ra đời của
Luật Thi hành án hình sự năm 2010
Ngày 17 tháng 6 năm 2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông
qua Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01-07-2011. Luật Thi hành
án hình sự được ban hành đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động lập
pháp của Nhà nước ta nói chung, trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói riêng,
thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người chấp
hành án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành
chính cũng như bảo đảm tốt hơn quyền tự do, dân chủ của công dân.
Để Luật Thi
hành án hình sự được đảm bảo thi hành, Chính phủ và các cơ quan có liên quan đã
ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án hình sự như:
- Nghị định số
80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011
của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người
chấp hành xong án phạt tù;
- Nghị định số
82/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011
của Chính phủ quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc;
- Nghị
định số 09/2012/NĐ-CP ngày 17/12/2012 của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý
và các chế độ đối với người lưu trú trong thời gian chờ xuất cảnh theo quy định
của Luật Thi hành án hình sự;
- Nghị định số
10/2012/NĐ-CP ngày 17/02/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành biện
pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm
tội;
- Thông tư liên
tịch số 07/2011/TTLT-BCA-BQP-BNG ngày 16/11/2011 hướng dẫn thi hành án phạt trục xuất;
- Thông tư liên
tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 hướng dẫn trình
tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp;
- Thông tư liên
tịch số 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 14-08-2012 của Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao và
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn
rút ngắn thời gian thử thách của án treo
(gọi tắt là Thông tư liên tịch số 08/2012);
- Thông
tư liên tịch
09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày
16-08-2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm
sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm hình phạt cải tạo không giam giữ;
miễn hình phạt cấm cư trú, quản chế còn lại
(gọi tắt là Thông tư liên tịch số 09/2012).
II. NHỮNG NỘI
DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực từ ngày 01/07/2011, bao gồm 15 chương, 182 điều với những
nội dung cơ bản sau:
1. Những quy định
chung
Tại chương I có 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9), quy định những
vấn đề chung về phạm vi điều chỉnh; bản án, quyết định được thi hành; giải
thích từ ngữ, nguyên tắc thi hành án hình sự; trách nhiệm phối hợp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong thi hành án hình sự; giám sát việc thi hành án hình sự;
phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án hình
sự; hợp tác quốc tế trong thi hành án hình sự và những hành vi bị nghiêm cấm
trong thi hành án hình sự. Theo đó, về phạm vi điều chỉnh của Luật bao gồm quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ
tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành bản
án, quyết định về hình phạt tù, tử hình, cảnh cáo...; trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan trong thi hành án hình sự, biện pháp tư pháp.
Tại Điều 4 quy định
8 nguyên tắc về thi hành án hình sự nhằm bảo
đảm thi hành án hình sự đúng mục
đích, có hiệu quả và thực hiện đúng chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước
ta trong trừng trị và giáo dục cải tạo người phạm tội, góp phần đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Tại Điều 9 quy định
về những hành vi bị nghiêm cấm trong thi hành án hình sự bao gồm: thứ nhất là
các hành vi bị nghiêm cấm đối với người phải chấp hành và những người có liên
quan; thứ hai là các hành vi bị nghiêm cấm đối với những người có thẩm quyền
trong thi hành án hình sự...
2. Hệ thống tổ chức thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án hình sự
Các văn bản trước đây chưa có quy định cụ thể,
thống nhất về chế độ thống kê, báo cáo tình hình, kết quả thi hành án hình sự….Đến
nay, Luật Thi hành án hình sự có quy định mới, đó là: Cơ quan Thi hành án hình
sự Công an tỉnh có nhiệm vụ tổng kết công tác thi hành án hình sự và thực hiện
chế độ thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của Cơ quan thi hành án hình sự Bộ Công
an (Điều 13); Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện cũng thực hiện chế
độ thống kê, báo cáo theo quy định.
Khi chưa có Luật Thi hành án hình sự để thi
hành hình phạt tù, Nhà nước đã thành lập cơ quan chuyên trách thuộc Bộ Công an
đó là Cục Cảnh sát quản lý trại giam; thi hành án tử hình giao cho lực lượng Cảnh
sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thực hiện. Còn các hình phạt như: án treo, cải tạo
không giam giữ…giao cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
bị kết án cư trú, làm việc. Đối với việc thi hành án phạt tiền, tịch thu tài sản
thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự.
Hiện nay, Luật Thi hành án quy
định về hệ thống tổ chức thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
có thẩm quyền trong thi hành án hình sự (từ Điều 10 đến Điều 20), với những nội
dung cơ bản sau:
- Luật Thi hành án hình sự đã có quy định cơ quan tổ chức
thi hành án cụ thể, rõ ràng.
Tại Điều 10 quy định có 3 loại:
+ Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng;
+ Cơ quan thi hành án hình sự bao gồm trại giam thuộc Bộ
Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu; cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; cơ quan thi hành án hình sự
Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương;
+ Cơ quan được giao một số nhiệm
vụ thi hành án hình sự bao gồm trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc
phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý thi hành án
hình sự nêu trên được quy định cụ thể tại các Điều 12; Điều 13; Điều 14 và Điều
15.
Đối với Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện có nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác thi hành án hình sự theo thẩm
quyền đối với UBND cấp xã (khoản 1 Điều 15).
- Ngoài ra Luật cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn,
cơ cấu tổ chức của trại giam. Theo đó, trại giam được xác định là cơ quan thi
hành án phạt tù có 12 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể (khoản 1 Điều 16).
- Nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự được quy định cụ
thể tại các Điều 17; Điều 18 và Điều 19.
Theo quy định tại Điều
18 quy định: “UBND cấp xã thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn về giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam
giữ, cấm cư trú, quản chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định, tước một số quyền công dân và án treo. Công an cấp xã tham mưu
giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo quy định”.
Để bảo đảm phù hợp với Bộ luật
hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật cũng quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn
của Toà án trong việc ra quyết định thi hành án; quyết định thành lập Hội đồng
thi hành án tử hình; ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án phạt
tù...(Điều 20).
Việc quy định về hệ thống tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án hình sự đã phân định rõ, rành mạch
chức năng của cơ quan quản lý thi hành án hình sự với cơ quan thi hành án hình
sự và cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, bảo đảm sự phân
công, phối hợp đồng bộ, bảo đảm quản lý tập trung, thống nhất công tác thi hành
án hình sự vào một đầu mối nhằm nâng cao hiệu quả công tác này và đảm bảo các
loại hình phạt đã tuyên trong các bản án đều được thi hành nghiêm chỉnh.
3. Thi hành án phạt tù
Chương 3 của Luật Thi hành án hình sự gồm 3 mục với 33 điều
(Điều 21 đến Điều 53) quy định những nội dung cơ bản sau:
a) Mục 1 (Điều 21 đến Điều 41) quy định về quyết định thi
hành án phạt tù, thi hành quyết định thi hành án phạt tù; thủ tục hoãn chấp
hành án phạt tù, thi hành quyết định hoãn chấp hành án phạt tù; hồ sơ đưa người
bị kết án đến nơi chấp hành án phạt tù; chế độ tiếp nhận, quản lý, giam giữ,
giáo dục, cải tạo phạm nhân; thông báo tình hình chấp hành án và phối hợp với
gia đình phạm nhân, cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục, cải tạo phạm
nhân; trả tự do cho phạm nhân và thi hành quyết định tiếp nhận, chuyển giao đối
với người đang chấp hành án phạt tù.
Các quy định về thi hành án phạt tù trước
đây được quy định trong Pháp lệnh Thi
hành án phạt tù. Nay Luật Thi hành án đã
có những quy định mới, đó là: tại Điều 21 quy định
về gửi quyết định thi hành án phạt tù thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi
hành án phạt tù và hình phạt bổ sung, Tòa án đã ra quyết định phải gửi quyết định
thi hành án cho người chấp hành án; Viện kiểm sát cùng cấp; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan Thi hành án hình sự cấp quân
khu; trại tạm giam nơi người phải
chấp hành án đang bị tạm giam; Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp
hành án đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ hoặc đang tại ngoại; Sở Tư pháp nơi Toà án đã ra quyết định thi hành án có
trụ sở.
- Về hồ sơ đưa người bị kết án đến nơi chấp hành án phạt
tù, theo quy định tại Điều 25 phải có đủ các giấy tờ như bản án đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm thì phải có bản án sơ thẩm kèm theo; quyết định thi hành án phạt tù; quyết định của cơ quan quản lý thi hành án hình sự đưa người
chấp hành án phạt tù đến trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện; danh bản của người chấp hành án phạt tù...
- Về giam giữ phạm nhân, Điều 27 quy định trại giam tổ chức giam giữ phạm nhân như sau: khu giam giữ đối với phạm
nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc loại tái phạm nguy
hiểm; khu giam giữ đối với phạm
nhân có mức án tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng
có kết quả chấp hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới
15 năm. Trong các khu giam giữ nêu trên, những phạm nhân là nữ, là người
chưa thành niên, là người nước ngoài, là người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt
nguy hiểm, là người có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời
gian chờ quyết định của Tòa án, là người thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam được bố trí giam
giữ riêng.
- Về chế độ học tập, học nghề, lao động và sử dụng kết quả
lao động của phạm nhân (quy định tại các Điều 28, 29 và 30):
Căn cứ vào yêu cầu quản lý, giáo dục phạm nhân và thời hạn
chấp hành án, trại giam, trại tạm giam, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp
huyện có trách nhiệm tổ chức dạy học cho phạm nhân theo chương trình, nội dung
do Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quy định. Việc
tổ chức cho phạm nhân học pháp luật, giáo dục công dân và học văn hoá, học nghề,
làm những công việc phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý,
giáo dục, hòa nhập cộng đồng đã thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của
Nhà nước ta.
Đối với kết quả lao động của phạm nhân sau khi trừ chi
phí vật tư, nguyên liệu, tiền công thuê lao động bên ngoài; chi phí điện, nước;
tiền ăn thêm do lao động nặng nhọc, độc hại theo ngành, nghề ngoài tiền ăn của
phạm nhân theo tiêu chuẩn do ngân sách nhà nước cấp; tiền bồi dưỡng cho
phạm nhân làm thêm giờ hoặc làm ngày nghỉ; khấu hao tài sản, chi phí quản
lý trực tiếp cho hoạt động lao động của phạm nhân, được sử dụng để bổ sung mức
ăn cho phạm nhân; lập quỹ hòa nhập cộng đồng để chi hỗ trợ cho phạm nhân khi chấp
hành xong án phạt tù; bổ sung vào quỹ phúc lợi, khen thưởng của trại giam; chi
thưởng cho phạm nhân có thành tích trong lao động; chi hỗ trợ đầu tư trở lại
cho trại giam phục vụ việc tổ chức lao động, giáo dục, dạy nghề đối với phạm
nhân.
- Về thông báo tình hình chấp hành án; phối hợp với gia
đình phạm nhân, cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục cải tạo phạm nhân:
Kế thừa quy định của Pháp lệnh thi hành án phạt tù, Điều
39 đã quy định cụ thể trách nhiệm của trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công
an, Bộ Quốc phòng, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh là định kỳ 6
tháng một lần phải thông báo tình hình chấp hành án của phạm nhân cho thân nhân
của họ. Trại giam, Trại tạm giam, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện
có trách nhiệm phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ
quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động,
rèn luyện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước và chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để phạm nhân tái hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù.
- Về quy định xét đề nghị giảm thời hạn chấp
hành hình phạt tù thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh (Điều
33) cũng là một điểm mới của Luật Thi hành án hình sự.
b) Mục 2 (từ Điều 42 đến Điều 49) quy định chế độ ăn, mặc,
ở, cấp phát tư trang, hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ,
chế độ gặp thân nhân, nhận quà, liên lạc và chăm sóc y tế đối với phạm nhân; chế
độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi và giải quyết trường
hợp phạm nhân chết. Theo đó, Điều 42 đã quy định về định mức, định lượng tiêu
chuẩn ăn của phạm nhân; quy định về chỗ nằm của phạm nhân nói chung với diện
tích tối thiểu là 2m2, phạm nhân có con nhỏ ở cùng thì được bố trí chỗ nằm với
diện tích tối thiểu là 3m2.
Nhà nước bảo đảm chế độ mặc và tư trang cho phạm nhân; bảo
đảm chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; gặp thân
nhân, nhận quà, liên lạc và chăm sóc y tế đối với phạm nhân. Những nội dung này
được quy định (tại các Điều 44, 46, 47 và 48) thể hiện tính nhân văn của pháp
luật và chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người chấp hành án phạt tù
và thực tiễn thời gian qua đã có tác dụng tích cực, quan trọng trong việc giúp
cho phạm nhân nâng cao thể chất, tinh thần, yên tâm giáo dục, cải tạo để sớm được
trở về với gia đình và xã hội.
Trước
đây mặc dù có quy định nhưng chưa quy định cụ thể việc cho phạm nhân được gặp vợ
hoặc chồng tại phòng riêng (đặc biệt là phạm nhân là nữ). Vấn đề này nay đã được
quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 5 Thông tư số 46/2011/TT-Bộ Công an ngày
30-6-2011 của Bộ Công an quy định việc phạm nhân gặp nhân thân; nhận, gửi thư;
nhận tiền, quà và liên lạc điện thoại với thân nhân.
Mặt
khác, trước đây Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban
hành quy chế trại giam chỉ cho phép phạm nhân liên lạc với thân nhân bằng điện
thoại (chưa cho phép phạm nhân gửi điện tín). Hiện tại Luật Thi hành án hình sự
cho phép phạm nhân trong trường hợp cấp bách thì được gửi điện tín. Chi phí do
phạm nhân chi trả (Điều 47 Luật Thi hành án hình sự).
- Xuất phát từ chính sách nhân đạo, bên cạnh các chế độ, tiêu chuẩn chung đối
với phạm nhân, Điều 45 còn quy định riêng về chế độ đối với phạm nhân nữ có
thai và nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi để tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong
việc bảo vệ sức khoẻ, nuôi con.
- Giải quyết trường hợp phạm nhân chết, Điều 49 quy định cụ thể về trình
tự, thủ tục giải quyết việc phạm nhân là người Việt Nam, người nước ngoài chết,
theo quy định này thì trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình
sự Công an cấp huyện có trách nhiệm tổ chức an táng phạm nhân chết. Kinh phí cho việc
an táng do Nhà nước cấp. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cụ thể về việc giải
quyết cho thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của
phạm nhân chết được nhận tử thi, tro cốt hoặc hài cốt.
c) Mục 3 (từ Điều
50 đến Điều 53) quy định thi hành án phạt tù đối với phạm nhân là người chưa
thành niên, bảo đảm tính nhân
đạo, sự phát triển bình thường cả về thể chất lẫn tinh thần cho họ. Cụ thể là,
về chế độ quản lý giáo dục, học văn hoá, học nghề, lao động, phạm nhân là người
chưa thành niên được giam giữ theo chế độ riêng phù hợp với sức khỏe, giới
tính, lứa tuổi và đặc điểm nhân thân (Điều 50); được bố trí lao động ở khu vực
riêng và không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với
các chất độc hại. Trại giam có trách nhiệm giáo dục phạm nhân là người chưa
thành niên về văn hóa, pháp luật và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn
hóa, giới tính và sức khỏe, chuẩn bị điều kiện để họ hòa nhập cộng đồng sau khi
chấp hành xong án phạt tù. Thực hiện bắt buộc chương trình tiểu học, phổ cập
trung học cơ sở và học nghề.
Bên cạnh đó, Nhà nước bảo đảm tiêu chuẩn định
lượng ăn, mặc mỗi tháng như phạm nhân là người thành niên và được tăng thêm định
lượng về thịt, cá nhưng không vượt quá 20% và được cấp thêm quần áo dài, quần
áo dài đồng phục, khăn mặt và các đồ dùng cá nhân khác phục vụ cho việc sinh hoạt
cá nhân (Điều 52); được gặp thân nhân không quá ba lần trong một tháng, mỗi lần
gặp không quá ba giờ, trường hợp đặc biệt được gặp không quá 24h; được liên lạc
với thân nhân qua điện thoại mỗi tháng không quá 4 lần, mỗi lần không quá 10
phút, có sự giám sát của cán bộ trại giam và tự chịu chi phí (Điều 53).
4. Thi hành án tử hình
Chương IV gồm 7 điều (từ Điều 54 đến Điều 60), quy định về quyết định thi
hành án tử hình; quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình; nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng thi hành án tử hình; chế độ quản lý giam giữ, ăn, mặc, ở,
sinh hoạt, gửi và nhận thư, nhận đồ vật, tiền mặt, gặp thân nhân, chăm sóc y tế;
hoãn thi hành án tử hình; hình thức và trình tự thi hành án tử hình; giải quyết
việc xin nhận tử thi, hài cốt của người bị thi hành án tử hình, với những nội dung cơ bản sau đây:
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng thi hành án tử hình, theo quy định tại
Điều 56, Hội đồng thi hành án tử hình có 5 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể là: quyết định kế hoạch và chuẩn bị các điều kiện bảo đảm cho
việc thi hành án; tổ chức kiểm tra các điều kiện về người chấp hành án tử hình theo quy định của
Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự; ra quyết định hoãn thi hành án và báo
cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án khi người bị kết án không đủ
điều kiện để thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết
cho việc thi hành án; yêu cầu đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan, tổ chức hỗ trợ bảo đảm an
toàn việc thi hành án trong trường hợp cần thiết; điều hành việc thi hành án theo kế hoạch và thông báo kết quả thi hành
án cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự.
- Về hình thức thi hành án tử hình, trên cơ sở nghiên cứu
lý luận và thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới,
khoản 1 Điều 59 quy định: “Thi hành án tử hình được thực hiện bằng tiêm thuốc độc.
Quy trình thực hiện do Chính phủ quy định”. Đây
là điểm mới của Luật Thi hành án hình sự so với quy định
trước đây về thi hành án tử hình thay đổi hình thức thi hành án tử hình bằng
hình thức tiêm thuốc độc thay cho hình thức xử bắn trước đây.
- Để tháo gỡ khó khăn trong việc xử lý các trường hợp
thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người bị thi hành án tử hình xin nhận tử thi về để an táng, Điều 60 đã quy định mới cho phép thân nhân hoặc người
đại diện hợp pháp của người bị thi hành án tử hình có thể được nhận tử thi về an
táng nếu có căn cứ cho rằng việc cho nhận tử thi không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và vệ sinh môi trường. Có đơn xác nhận của
UBND cấp xã nơi cư trú và có xác nhận của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm đồng
ý.
5. Thi hành án treo, án phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ
5.1. Thi hành án treo
Chương V Mục 1 (từ Điều 61 đến
Điều 70) quy định về quyết định
thi hành án treo; thi hành quyết định thi hành án treo; nhiệm vụ của Ủy ban
nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng
án treo; nghĩa vụ của người được hưởng án treo; việc lao động, học tập của người
được hưởng án treo; thủ tục rút ngắn thời gian thử thách; thực hiện việc kiểm
điểm người được hưởng án treo; bổ sung hồ sơ thi hành án treo; giải quyết trường
hợp người được hưởng án treo thay đổi
nơi cư trú hoặc nơi làm việc và trách nhiệm của gia đình người được hưởng án
treo.
5.2. Thi hành án phạt cảnh cáo
- Chương V Mục 2 có 01 điều (Điều 71) quy định về thi hành án phạt cảnh cáo. Theo đó, hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa
án tuyên; trong thời hạn 07 ngày, kể từ khi bản án có
hiệu lực pháp luật, Toà án đã xét xử sơ thẩm phải gửi bản
án cho người bị phạt cảnh cáo, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Cơ quan Thi hành án hình sự cấp quân
khu, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội nơi người bị phạt cảnh cáo cư trú
hoặc làm việc, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trụ sở. Cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện, Cơ quan Thi hành án hình sự cấp quân khu có
trách nhiệm theo dõi, thống kê báo cáo về thi hành án phạt cảnh cáo.
5.3. Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
- Chương V
mục 3 (từ Điều 72 đến Điều 81) quy định về quyết định thi hành án phạt cải tạo
không giam giữ; thủ tục thi hành quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam
giữ; nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát,
giáo dục người chấp hành án; nghĩa vụ của người chấp hành án; việc lao động, học
tập của người chấp hành án; thủ tục giảm thời hạn chấp hành án; thủ tục miễn chấp
hành án; thực hiện việc kiểm điểm người chấp hành án; bổ sung hồ sơ thi hành án
và trách nhiệm của gia đình người chấp hành án.
6. Thi hành án phạt
cấm cư trú, quản chế
Chương này gồm 2 mục, 14 điều
(từ Điều 82 đến Điều 95), cụ thể:
- Mục 1 (từ Điều 82 đến Điều 88) quy định thủ tục thi hành án phạt cấm cư trú; nhiệm vụ, quyền hạn
của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án về cư trú; nghĩa vụ của người
chấp hành án phạt cấm cư trú; quyền của người chấp hành án phạt cấm cư trú; thủ
tục miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú còn lại; bổ sung hồ sơ thi hành án phạt
cấm cư trú; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án không
được đến cư trú.
* Quyền của người chấp hành án phạt cấm cư trú : khi có lý do chính đáng và được sự đồng ý của Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi bị cấm cư trú, thì người chấp hành án phạt cấm cư trú được đến địa phương đó; thời
gian lưu trú do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đến quyết định, nhưng mỗi lần không
được quá năm ngày; được lựa chọn nơi cư trú ngoài nơi đã bị cấm; khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì được Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi cư trú đề nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú theo
quy định của Luật này.
* Về nghĩa vụ của người chấp hành án phạt cấm cư trú:
không được cư trú ở những nơi đã bị cấm
cư trú; chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật; phải có mặt theo yêu cầu của
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án cư trú.
- Mục 2 (từ Điều 89 đến Điều 95) quy định thủ
tục thi hành án phạt quản chế; nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người chấp hành án phạt quản chế về cư trú; quyền, nghĩa vụ của người chấp
hành án phạt quản chế; giải quyết trường hợp người chấp hành án phạt quản chế
đi khỏi nơi quản chế; bổ sung hồ sơ thi hành án phạt quản chế và thủ tục miễn
chấp hành thời hạn quản chế còn lại.
Theo quy định tại
khoản 1 Điều 90, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
người chấp hành án phạt quản chế về cư trú có 7 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Căn cứ vào khả năng về lực lượng, tổ chức
bộ máy và các điều kiện bảo đảm khác của Công an cấp xã, Luật đã quy định giao
cho Trưởng Công an cấp xã có nhiệm vụ tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn này.
Về giải quyết trường hợp người chấp hành án phạt quản chế đi khỏi nơi quản chế, theo quy định tại Điều 93, trong trường hợp có lý do chính đáng, người
chấp hành án phạt quản chế có thể được cấp giấy phép đi khỏi nơi quản chế.
Thẩm quyền cấp giấy phép được quy định cụ thể như sau:
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản chế cấp giấy
phép đi lại trong phạm vi cấp huyện nơi quản chế.
+ Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện
cấp giấy phép đi lại trong phạm vi cấp tỉnh nơi quản chế.
+ Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh
cấp giấy phép đi ra ngoài phạm vi cấp tỉnh nơi quản chế.
Thời hạn người chấp hành án phạt quản chế được phép đi khỏi
nơi quản chế do người có thẩm quyền cấp giấy phép quyết định, nhưng mỗi lần
không quá 10 ngày. Trường hợp người chấp hành án phạt quản chế phải đi chữa bệnh
thì thời gian đi khỏi nơi quản chế theo thời gian điều trị của cơ sở chữa bệnh.
7. Thi hành án phạt
trục xuất
Chương VII gồm 7 điều (từ Điều
96 đến Điều 102), quy định quyết định thi hành án phạt trục xuất; thông báo và
hồ sơ thi hành án phạt trục xuất; lưu trú trong thời gian chờ xuất cảnh; giải
quyết trường hợp người chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn; thực hiện buộc rời
khỏi lãnh thổ Việt Nam và chi phí trục xuất.
- Về lưu trú trong thời gian chờ xuất cảnh: trong thời gian chờ xuất cảnh, người chấp hành án phạt trục
xuất phải lưu trú tại nơi được cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh chỉ
định. Theo quy định tại khoản 2 Điều 99, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh có trách nhiệm đưa người chấp hành án phạt
trục xuất vào cơ sở lưu trú của Bộ Công an nếu thuộc một trong các trường hợp
sau đây: không có nơi thường
trú, tạm trú; nhập cảnh trái phép hoặc phạm các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng...
- Trường hợp người chấp hành
án phạt trục xuất chết trong thời gian chờ xuất cảnh thì cơ sở lưu trú hoặc nơi lưu trú được chỉ định phải báo
ngay cho Cơ quan Thi hành án hình sự Công an
cấp tỉnh, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền để xác định nguyên nhân
chết. Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh phải thông báo bằng văn bản
hoặc bằng điện tín cho Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt trục xuất, Bộ
Ngoại giao Việt Nam, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà
người chấp hành án là công dân hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà người
đó làm việc, cơ quan, tổ chức đã bảo lãnh người đó vào Việt Nam. Sau khi được
cơ quan có thẩm quyền cho phép, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh có
trách nhiệm tổ chức an táng. Trường hợp thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của
người chết đề nghị được nhận tử thi về an táng và tự chịu chi phí thì Cơ quan
Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh xem xét, giải quyết.
- Theo quy định tại Điều 100, trường hợp người chấp hành
án phạt trục xuất bỏ trốn thì cơ sở lưu trú hoặc nơi lưu trú chỉ định phải lập
biên bản và thông báo ngay cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi
có cơ sở lưu trú hoặc nơi lưu trú chỉ định. Cơ quan Thi hành án hình sự Công an
cấp tỉnh nhận được thông báo phải tổ chức truy bắt ngay; trường hợp truy bắt
không có kết quả thì trong thời hạn bảy ngày phải ra quyết định truy nã. Người
chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn ra đầu thú thì cơ quan tiếp nhận lập biên bản
và thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh đến nhận và đưa
người đó vào cơ sở lưu trú.
- Về chi phí trục xuất, theo quy định tại Điều 102 thì,
người chấp hành án phạt trục xuất phải chịu chi phí vé máy bay, ôtô, tàu hỏa,
tàu biển để rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Nếu người chấp hành án phạt trục xuất
không có khả năng tự chịu chi phí thì Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh
phối hợp với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh yêu cầu cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người đó là công dân hoặc cơ quan đại diện của
tổ chức quốc tế mà người đó làm việc, cơ quan, tổ chức đã bảo lãnh người đó vào
Việt Nam giải quyết kinh phí đưa người chấp hành án phạt trục xuất về nước.
Trường hợp đã yêu cầu mà cơ quan, tổ chức đó vẫn chưa giải
quyết được kinh phí nhưng vì lý do an ninh quốc gia cần phải trục xuất ngay thì
Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh báo cáo cơ quan quản lý
thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an quyết định việc sử dụng ngân sách chi trả
vé máy bay, ôtô, tàu hỏa, tàu biển cho người chấp hành án phạt trục xuất.
8. Thi hành án phạt
tước một số quyền công dân
Chương VIII gồm 4 điều (Điều
103 đến Điều 106), quy định thủ tục thi hành án phạt tước một số quyền công
dân; tước quyền bầu cử, ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước; tước quyền
làm việc trong cơ quan nhà nước và tước quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang
nhân dân. Theo đó, về thủ tục thi hành án phạt tước một số quyền
công dân.
Tại Điều 103 quy định:
- Hai tháng trước khi hết thời
hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân có hình phạt bổ sung là tước một số
quyền công dân, Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh trong trường hợp phạm nhân chấp hành án tại
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm thông báo bằng văn
bản về việc thi hành hình phạt bổ sung cho Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi người
đó về cư trú.
- Ngay sau khi phạm nhân có hình phạt bổ
sung là tước một số quyền công dân chấp hành xong án phạt tù, trại giam, trại tạm
giam phải gửi giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt tù, bản sao bản án, bản
sao quyết định thi hành án cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
nơi người chấp hành án về cư trú.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được các văn bản quy định tại khoản 2 Điều 103, Cơ quan Thi hành án
hình sự Công an cấp huyện nơi người đó về cư trú có trách nhiệm lập hồ sơ thi
hành án phạt tước một số quyền công dân và thông báo bằng văn bản cho Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án về cư trú.
- Trường hợp người chấp hành án phạt tước
một số quyền công dân là người được hưởng án treo thì Tòa án ra quyết định thi
hành án phải gửi bản sao bản án, quyết định thi hành án cho Cơ quan Thi hành án
hình sự Công an cấp huyện. Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện lập hồ
sơ và thông báo cho cơ quan nơi người chấp hành án phạt tước một số quyền công
dân làm việc, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.
- Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện có nhiệm
vụ theo dõi, giám sát việc thực hiện thi hành án phạt tước một số quyền công
dân theo bản án của Tòa án. Khi hết thời hạn chấp hành án, Cơ quan Thi hành án
hình sự Công an cấp huyện phải cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt tước
một số quyền công dân và gửi cho người chấp hành án, UBND cấp xã nơi người đó
cư trú, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Cơ quan Thi hành án
hình sự Công an cấp huyện cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt có trụ
sở.
9. Thi hành án phạt
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
Chương IX gồm 3 điều (từ Điều
107 đến Điều 109), quy định thủ tục thi hành; quyền và nghĩa vụ của người chấp
hành án phạt nêu trên. Tạo cơ sở pháp lý thuận lợi
cho việc thi hành, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc thi
hành án phạt này thời gian qua.
10. Thi hành biện pháp tư pháp
Chương X gồm 4 mục với 31 điều
(từ Điều 110 đến Điều 140), cụ thể như sau:
- Mục 1 (từ Điều 110 đến Điều
115) quy định chung về thi hành biện pháp
tư pháp như quyết định áp dụng biện pháp tư pháp; nguyên tắc thi hành biện
pháp tư pháp; những hành vi bị nghiêm cấm
trong thi hành biện pháp tư pháp; cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành
biện pháp tư pháp; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong thi hành biện
pháp tư pháp và bảo đảm điều kiện thi hành các biện pháp tư pháp.
- Mục 2 (từ Điều 116 đến Điều
120) quy định về thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh với các nội dung cơ bản
như thẩm quyền đề nghị, hồ sơ đưa người vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh; đưa người
vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh; tổ chức điều trị cho người bị bắt buộc chữa bệnh;
đình chỉ thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh và giải quyết trường hợp người bị
bắt buộc chữa bệnh chết.
- Mục 3 (từ Điều 121 đến Điều
123) quy định thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người
chưa thành niên như thủ tục thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn...
- Mục 4 (từ Điều 124 đến Điều 140) quy định về thi hành
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên như thủ tục
đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên; hoãn chấp hành biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng; giải quyết trường hợp
người phải chấp hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng bỏ trốn...
11. Kiểm sát thi
hành án hình sự
Chương XI gồm 3 điều (từ Điều
141 đến Điều 143), quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong kiểm sát thi hành án hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết kiến nghị, kháng nghị,
yêu cầu, thi hành quyết định của Viện kiểm sát về thi hành án hình sự.
12. Bảo đảm điều
kiện cho hoạt động thi hành án hình sự
Chương XII gồm 6 điều (Điều 144 đến Điều 149), quy định về
bảo đảm biên chế, cán bộ thi hành án hình sự; bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ hoạt
động thi hành án hình sự; trang bị và sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp
vụ, công cụ hỗ trợ trong thi hành án hình sự; cơ sở dữ liệu về thi hành án hình
sự; bảo đảm kinh phí cho hoạt động thi hành án hình sự và chế độ, chính sách đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án hình sự.
13. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án
hình sự
Chương XIII gồm 2 mục với 20 điều (từ Điều 150 đến Điều 169), cụ thể:
- Mục 1 (Điều 150 đến Điều 164) quy
định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thi hành án hình sự với những
nội dung cơ bản như: quyền khiếu nại trong thi hành án hình sự; những trường
hợp khiếu nại về thi hành án hình sự không được thụ lý giải quyết.
- Mục 2 (Điều 165 đến Điều 169) quy
định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án hình sự. Luật đã quy định theo hướng phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của những người, cơ quan, tổ chức được giao
nhiệm vụ quản lý thi hành án hình sự và xác định rõ việc giải quyết khiếu nại
được thực hiện theo hai cấp. Các quy định này phù hợp với tính chất, đặc điểm
của hoạt động thi hành án hình sự và tổ chức bộ máy của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan.
14. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà
nước trong quản lý công tác thi hành án hình sự
Chương XIV gồm 11 điều (từ Điều 170 đến Điều 180) quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong quản lý nhà nước về thi hành án hình
sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong quản lý công tác
thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Giáo dục và Đào tạo trong thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thi hành án hình sự.
III. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1. Thẩm quyền của Tòa án trong thi hành
án hình sự theo quy định của Luật Thi hành án hình sự
Trước đây, do vấn đề thi hành án hình sự
chưa được quy định thống nhất, mà nằm rải rác ở nhiều văn bản bao gồm: Bộ luật
hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, nên không
phân định rõ rệt cơ quan tư pháp nào có chức năng “chủ trì” trong thi hành án hình sự và vai trò của Tòa án trong
thi hành án hình sự cũng chưa được hiểu thống nhất. Thực tế, có nhiều quan điểm
khác nhau về thẩm quyền của Toà án trong thi hành án hình sự. Có quan điểm cho
rằng thi hành án hình sự không phải là một công tác chủ yếu của Toà án mà đó chỉ
là những việc liên quan đến Toà án; có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự
là việc chung của nhiều cơ quan tư pháp chứ không phải của riêng Toà án; có
quan điểm cho rằng thi hành án hình sự là một trong những công tác chủ yếu của
Toà án.
Luật Thi hành án hình sự, đã quy định
rõ cơ quan có chức năng chủ trì trong thi hành án hình sự và thẩm quyền của Tòa
án trong thi hành án hình sự. Điều 10 Luật Thi hành án hình sự quy định cơ quan
tổ chức thi hành án hình sự chỉ bao gồm bốn cơ quan sau:
- Trại giam;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
tỉnh;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện;
- Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu.
Theo quy định tại Điều 10 thì Tòa án
không phải là một cơ quan tổ chức thi hành án hình sự mà là cơ quan có thẩm quyền
trong công tác thi hành án hình sự. Điều 20 Luật Thi hành án hình sự quy định
thẩm quyền của Tòa án trong thi hành án hình sự, bao gồm:
- Ra quyết định thi hành
án; quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình.
- Ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ
chấp hành án phạt tù; miễn, giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời hạn trục
xuất; rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo.
- Xem xét, giải quyết việc cho nhận tử thi của
người chấp hành án tử hình.
- Gửi bản án, quyết định được thi hành và quyết
định quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tài liệu có liên quan cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật này.
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi
hành án hình sự theo thẩm quyền và nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của
Luật này.
Đây là quy định chung về Thẩm quyền của Tòa
án trong thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối với từng giai đoạn
thi hành của bản án, quyết định, đối với từng hình phạt khác nhau được quy định
cụ thể tại các điều: Điều 21, Điều 23, Điều 31, Điều 33, Điều 34, Điều 54, Điều
55, Điều 56, Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 61, Điều 66, Điều 71, Điều 72, Điều
77, Điều 78, Điều 86, Điều 95, Điều 96, Điều 97 và Điều 110 Luật Thi hành án
hình sự và được hướng dẫn chi tiết thi hành tại các văn bản hướng dẫn đã liệt
kê ở trên.
Như vậy, theo quy định này thì từ khi bản
án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án, quyết định đó được thi hành xong đều
có sự tham gia của Toà án. Toà án phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và chính
xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra thi hành được thực hiện
nghiêm chỉnh.
Ngoài
ra, Điều 173 Luật thi hành án hình sự còn quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Toà
án nhân dân tối cao trong thi hành án hình sự, bao gồm:
- Phối hợp với Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và các cơ quan hữu quan khác trong việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về thi hành án hình sự.
- Hướng dẫn Toà án các cấp trong việc ra quyết
định thi hành án hình sự; phối hợp với cơ quan, tổ chức quy định tại các khoản
1, 2 và 3 Điều 10 của Luật này trong công tác thi hành án hình sự.
- Phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
trong việc tổng kết công tác thi hành án hình sự.
- Phối hợp với Bộ Công an trong việc thực hiện
chế độ thống kê, báo cáo về công tác thi hành án hình sự.
2. Một số điểm cần lưu ý
2.1. Luật Thi hành án
hình sự đã quy định thêm thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, giải quyết
cho nhận tử thi của người chấp hành án tử hình (Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng
hình sự chưa có quy định về vấn đề này)
Điều 60 Luật Thi hành án hình sự quy định trước khi thi hành án tử hình, thân nhân hoặc người đại diện
hợp pháp của người chấp hành án được làm đơn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi cư trú gửi Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm đề nghị giải quyết cho nhận
tử thi của người chấp hành án để an táng; trường hợp người chấp hành án là người
nước ngoài thì đơn phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan đại
diện ngoại giao tại Việt Nam của nước mà người chấp hành án mang quốc tịch và
phải được dịch ra tiếng Việt. Đơn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người nhận tử
thi, quan hệ với người chấp hành án; cam kết bảo đảm yêu cầu về an ninh, trật tự,
vệ sinh môi trường và tự chịu chi phí. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thông
báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị về việc cho nhận tử thi hoặc không
cho nhận tử thi khi có căn cứ cho rằng việc nhận tử thi ảnh hưởng đến an ninh,
trật tự, vệ sinh môi trường. Trường hợp người chấp hành án là người nước ngoài,
thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho
Bộ Ngoại giao Việt Nam để thông báo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan đại
diện ngoại giao tại Việt Nam của nước mà người đó mang quốc tịch.
2.2. Luật Thi hành án hình sự đã quy định chi
tiết những nội dung, công việc Tòa án phải thực hiện trong thi hành án hình sự
Nếu như trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định thẩm quyền, các hoạt động của Tòa án trong thi hành án hình sự rất
chung chung, gây khó khăn cho Tòa án trong việc thực hiện thẩm quyền của mình,
muốn thực hiện được phải có văn bản hướng dẫn thi hành. Nay, Luật thi hành án
hình sự đã quy định rất cụ thể về thẩm quyền của Tòa án:
- Quy định cụ thể nội dung phải có của quyết
định thi hành án; quyết định hoãn, tạm định
chỉ, đình chỉ chấp hành hình phạt tù; quyết định miễn, giảm thời hạn chấp hành
án; quyết định kéo dài thời hạn trục xuất; quyết định rút ngắn thời gian thử
thách đối với người được hưởng án treo.
- Quy định cụ thể thủ tục, thời hạn gửi các quyết định trên đây
của Tòa án sau khi đã được ban hành và
quy định những cơ quan nào Tòa án phải gửi quyết định thi hành án.
- Quy định cụ thể về thủ tục, thời hạn của
Tòa án trong việc xem xét hoãn, tạm định chỉ, đình chỉ chấp hành hình phạt tù;
miễn, giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời hạn trục xuất; rút ngắn thời
gian thử thách đối với người được hưởng án treo.
Những quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi
cũng như nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện thẩm quyền trong
hoạt động thi hành án hình sự.
2.3. Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét
hoãn, tạm đình chỉ, giảm và miễn chấp hành án phạt tù
Bộ luật Tố tụng hình sự đã có quy định về
hoãn, tạm đình chỉ, giảm, miễn chấp hành án phạt tù tại các điều 261, 262, 268,
269. Tuy nhiên các điều luật này còn chung chung, không quy định rõ về trình tự,
thủ tục đề nghị Tòa án xem xét hoãn, tạm đình chỉ, giảm, miễn chấp hành hình phạt
tù và không quy định thời hạn Tòa án phải ra các quyết định này. Pháp lệnh Thi
hành án phạt tù cũng không quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền xem
xét hoãn, tạm đình chỉ, giảm và miễn chấp hành án phạt tù mà dẫn chiếu đến quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều này dẫn đến tình trạng Tòa án chậm trễ
trong việc xem xét hoãn, tạm đình chỉ, giảm và miễn chấp hành hình phạt tù, làm
ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người phải chấp han hành hình phạt tù.
Luật Thi hành án hình sự đã quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn
xem xét hoãn, tạm đình chỉ, giảm và miễn chấp hành án phạt tù và quy định về việc
gửi quyết định hoãn, tạm đình chỉ, giảm, miễn thi hành án phạt tù tại các Điều
23, 31, 33 và 34.
a) Hoãn chấp hành án phạt tù (Điều 23 Luật
Thi hành án hình sự):
- Điều kiện xem xét hoãn chấp hành án phạt
tù:
Theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Tố tụng
hình sự, người bị kết án phạt tù có thể được xem xét hoãn trong các trường hợp
sau:
+ Bị bệnh nặng;
+ Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi;
+ Là người lao động duy nhất trong gia đình,
nếu bị phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt;
+ Bị kết án về tội ít nghiêm trọng và cấn phải
thực hiện nhu cầu công vụ.
- Những chủ thể sau đây có quyền làm đơn hoặc
văn bản đề nghị Tòa án đã ra quyết định thi hành án phạt tù đối với người kết
án phạt tù đang được tại ngoại (gửi kèm theo các giấy tờ có liên quan):
+ Người bị kết án;
+ Viện Kiểm sát cùng cấp;
+ Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
nơi người phải chấp hành án cư trú hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu nơi người chấp hành án làm việc.
Trong trường hợp các chủ thể trên đây không
có đơn, văn bản đề nghị, thì Tòa án đã ra quyết định thi hành án phạt tù có thể
tự mình ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù nếu xét thấy đủ điều kiện.
- Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn hoặc văn bản đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Tòa án
đã ra quyết định thi hành án phải xem xét, quyết định.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, Tòa án đã ra quyết định hoãn phải gửi
quyết định đó cho cá nhân, cơ quan sau: người chấp hành án;Viện kiểm sát cùng cấp;
Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp
quân khu; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn thi
hành án đang cư trú; Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ
sở.
b) Tạm đình chỉ chấp
hành án phạt tù (Điều 31 Luật Thi hành án hình sự):
- Điều kiện xem xét
tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù giống như điều kiện xem xét hoãn chấp hành án
phạt tù ( Điều 62 Bộ luật Hình sự).
- Các cơ quan sau có thẩm quyền lập hồ sơ gửi
cho Tòa án có thẩm quyền đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù:
+ Trại giam; trại tạm giam thuộc Bộ Công an;
trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng;
+ Cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu;
+ Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu.
- Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án
phạt tù, Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi phạm
nhân đang chấp hành án phải xem xét, quyết định.
Điều 262 Bộ luật Tố tụng Hình sự có sự phân định
thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù giữa Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án và Tòa án đã
ra quyết định thi hành án phạt tù căn cứ vào điều kiện để tạm đình chỉ chấp
hành án phạt tù. Tuy nhiên, Điều 31 Luật Thi hành án hình sự chỉ quy định Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành
án có thẩm quyền tạm đình chỉ chấp hành
án phạt tù.
Lưu ý, Điều 31 còn quy định thêm việc tạm
đình chỉ chấp hành án phạt tù để
xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải do người đã kháng nghị hoặc
do Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm quyết định.
c) Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù (Điều 33 Luật Thi hành án hình sự):
- Điều kiện xem xét giảm chấp hành hình phạt tù (Điều 58 Bộ luật Hình sự):
+ Đã chấp hành án
phạt tù được một thời gian nhất định;
+ Có nhiều tiến bộ.
- Các cơ quan có thẩm quyền đề nghị tạm đình
chỉ chấp hành án phạt tù nêu trên cũng có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp
hành án phạt tù.
- Cơ quan có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn
chấp hành án phạt tù có trách nhiệm lập hồ sơ và chuyển cho Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án quân sự quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án xem xét, quyết định.
Hồ sơ phải có đầy đủ các văn bản, tài liệu quy định tại Khoản 2 Điều 33.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án
phạt tù, Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án quân sự quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án phải mở phiên họp
xét giảm và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát
phải cử Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Trường hợp hồ sơ phải bổ sung thì thời
hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.
Đây là điểm mới quan trọng của Luật thi hành
án hình sự, vì không chỉ quy định thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề
nghị Tòa án phải xem xét quyết định, mà còn quy định thêm thủ tục xem xét quyết
định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà các văn bản trước đây không có quy định.
Theo đó, Tòa án phải mở phiên họp xét giảm và phiên họp này phải có sự tham gia
của Kiếm sát viên. Quy định Kiểm sát viên tham gia phiên họp có ý nghĩa quan trọng,
vì Viện kiểm sát là cơ quan đề nghị sẽ trình bày ý kiến của mình, đồng thời Kiểm
sát viên cũng là người giám sát việc thi hành pháp luật của Tòa án.
- Trong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định
đó cho người được giảm thời hạn chấp hành án, cơ quan đề nghị giảm thời hạn chấp
hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra
quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định giảm thời hạn chấp
hành án phạt tù có trụ sở.
d) Miễn chấp hành
án phạt tù (Điều 34 Luật Thi hành án hình sự):
- Điều kiện xem xét
miễn chấp hành án phạt tù:
Người bị kết án phạt
tù được xem xét miễn chấp hành án phạt tù khi thuộc một trong hai trường hợp
sau (Điều 57 Bộ luật Hình sự):
+ Thứ nhất: người bị
kết án chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và
không còn nguy hiểm cho xã hội.
+ Thứ hai: người bị
kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù
mà trong thời gian được tạm đình chỉ đã lập công.
- Viện kiểm sát có thẩm quyền nơi người chấp
hành án phạt tù đang cư trú hoặc
làm việc lập hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu xét miễn chấp hành án phạt tù. Hồ sơ gồm có:
+ Bản sao bản án có hiệu lực pháp luật;
+ Văn bản đề nghị của Viện kiểm sát có thẩm
quyền;
+ Đơn xin miễn chấp hành án phạt tù của người bị kết án;
+ Bản tường trình của người bị kết án về việc lập
công hoặc lập công lớn có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền đối với người bị kết
án đã lập công, lập công lớn hoặc kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp
quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật của người bị kết án đối với người bị kết
án mắc bệnh hiểm nghèo.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu phải mở phiên họp xét
miễn và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát phải
cử Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Trường hợp hồ sơ cần được bổ sung theo yêu
cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ
sung. Như vậy, thủ tục xét miễn chấp hành án phạt tù cũng được quy định mới
tương tự như xét giảm chấp hành án phạt tù, Tòa án phải mở phiên họp và có sự
tham gia của Kiểm sát viên.
- Trong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định miễn chấp hành án phạt tù, Toà án đã ra quyết
định miễn chấp hành án phạt tù
có trách nhiệm gửi quyết định này cho người được miễn chấp hành án, Viện kiểm
sát đề nghị, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, cơ quan thi hành án hình sự cùng
cấp, Toà án đã ra quyết định thi hành án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó
cư trú, đơn vị quân đội quản lý người đó, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định
có trụ sở.
2.4. Luật Thi hành án hình sự đã quy định
thêm thẩm quyền của Tòa án “Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi hành án
hình sự theo thẩm quyền và nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này”
Tòa án có trách nhiệm thống kê công tác thi
hành án của Tòa án cấp mình và thực hiện chế độ báo cáo hàng năm cho Tòa án cấp
trên và báo cáo cho cơ quan có chức năng giám sát thi hành án theo quy định của
Luật Thi hành án hình sự. Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Bộ Công an để thực
hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác thi hành án hình sự.
2.5. Về điều kiện ra quyết định thi hành án của Tòa án
Toà án chỉ được ra quyết định thi hành
án khi có các căn cứ quy định tại Điều 255, 240 và 237 BLTTHS. Trong thực tiễn
đã xảy ra một số trường hợp Toà án cấp sơ thẩm ra quyết định thi hành án khi bản
án, quyết định đang bị kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, khi ra quyết định thi
hành án, cần kiểm tra kỹ bản án, quyết định đó có bị kháng cáo, kháng nghị
không hoặc có thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS không.
Trong trường hợp kháng cáo, kháng nghị quá thời hạn thì phải chờ quyết định của
Toà án cấp phúc thẩm về việc có chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo, kháng
nghị quá hạn.
2.6. Về uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định
thi hành án
Vấn đề này không được quy định trong Luật
thi hành án hình sự nhưng đã được quy định tại Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự,
cụ thể: “Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được
bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm,
Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho
Tòa án cùng cấp ra quyết định thi hành án”và được hướng dẫn tại điểm 2 mục
I Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “Thi
hành bản án và quyết định của Tòa án” của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Toà án khác cùng cấp là cùng cấp huyện
(Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; Toà án quân sự
khu vực) hoặc Toà án nhân dân cấp tỉnh (Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; Toà án quân sự quân khu và tương đương). Hiện nay tất cả các
Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự cấp khu vực đều đã thực hiện thẩm quyền
xét xử theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Việc uỷ thác cho Toà án cùng cấp ra quyết
định thi hành án hình sự chỉ được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Sau khi Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định
thi hành án và đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng cơ quan
Công an cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Toà án cùng cấp biết là người bị kết
án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể;
Ở trường hợp này thì Toà án sẽ phải ra
hai quyết định, một là quyết định thi hành án và hai là quyết định uỷ thác thi
hành án. Vấn đề là khi Toà án ra quyết định uỷ thác thi hành án và quyết định
này chỉ ban hành sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án, đã gửi cho cơ
quan Công an cùng cấp và nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an
cùng cấp cho Toà án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ
cụ thể. Trường hợp này sẽ phát sinh vấn đề là quyết định thi hành án của Toà án
cấp sơ thẩm đã ban hành nhưng không được thực hiện bởi Toà án sẽ phải ra quyết
định uỷ thác thi hành án và có thể hiểu là quyết định uỷ thác thi hành án đã phủ
định quyết định thi hành án trước đó, tức là quyết định thi hành án này không
còn hiệu lực thi hành. Cũng có quan điểm cho rằng trường hợp này Toà án đã ra
quyết định uỷ thác thi hành án gửi quyết định uỷ thác và gửi cả quyết định thi
hành án. Theo chúng tôi, Toà án ra quyết định uỷ thác chỉ cần gửi quyết định uỷ
thác thi hành án cùng với hai bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực
pháp luật là đủ và đúng với hướng dẫn tại mục 1 Thông tư liên ngành số 03/TTLN
ngày 30/6/1993 của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao “Hướng dẫn thực hiện một số
quy định của Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993”.
Trường hợp thứ hai: Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người
bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác.
Vấn đề đặt ra là: Căn cứ về việc người
bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác xuất hiện vào thời điểm nào,
trước hay sau khi Toà án ra quyết định thi hành án hình sự? Về vấn đề này,
trong điểm 2 mục I Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP cũng không hướng dẫn cụ thể phải
giải quyết thế nào. Theo chúng tôi cũng có thể giải quyết như sau:
- Nếu Toà án chưa ra quyết định thi
hành án mà có căn cứ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác
thì ra quyết định uỷ thác thi hành án, gửi cho Toà án được uỷ thác các tài liệu
kèm theo, trong đó có tài liệu mà căn cứ vào tài liệu này, Toà án biết rõ người
bị kết án đang cư trú trên địa bàn của Toà án được uỷ thác thi hành án. Tài liệu
này giúp cho Toà án được uỷ thác thi hành án ra quyết định thi hành án và tạo
điều kiện thuận lợi để cơ quan Công an thi hành quyết định của Toà án.
- Nếu sau khi Toà án đã ra quyết định
thi hành án mới biết là có căn cứ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành
chính khác, có thể thông tin (căn cứ) này không phải do cơ quan Công an cung cấp
hoặc thông báo bằng văn bản mà do từ các nguồn thông tin khác thì Toà án sơ thẩm
thực hiện việc uỷ thác thi hành án như hướng dẫn ở trường hợp thứ nhất (như việc
nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an về việc người bị kết án đã
chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể).
Về thẩm quyền của Toà án được uỷ thác:
Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận
được quyết định uỷ thác thi hành án, Chánh án Toà án được uỷ thác phải ra quyết
định thi hành án.Chú ý:
- Nếu cơ quan Công an thông báo là người
bị kết án đã chuyển đi cư trú tại địa bàn khác thì trả hồ sơ uỷ thác thi hành
án cho Toà án đã uỷ thác và giải quyết:
+ Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án
biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án
này tiếp tục thực hiện việc uỷ thác cho Toà án nơi người bị kết án đang cư trú;
+ Nếu Toà án được uỷ thác không biết địa
chỉ mới của người bị kết án thì cũng thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án
này ra quyết định thi hành án và yêu cầu cơ quan Công an ra quyết định truy nã.
- Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án thấy việc
uỷ thác là không có căn cứ, không đúng thì phải thông báo bằng văn bản và nêu
rõ lý do để Toà án đã uỷ thác biết. Toà án đã uỷ thác nếu thấy việc từ chối uỷ
thác là có căn cứ thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định hủy
quyết định uỷ thác không có căn cứ. Việc ra quyết định thi hành án hay tiếp tục
ra quyết định uỷ thác cho Toà án khác tuỳ thuộc vào việc có căn cứ để ra một
trong hai quyết định này không.
2.7. Một số điểm lưu ý về thi hành án tử hình
Điểm mới nhất của
Luật Thi hành án hình sự về thi hành án tử hình là thi hành án tử hình được thực
hiện bằng tiêm thuốc độc. Quy trình thực hiện việc tiêm thuốc độc đã được Chính
phủ quy định cụ thể tại Nghị định số 82/2011/NĐ-CP
ngày 16/9/2011 về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Để triển
khai thực hiện các quy định này, Bộ công an đã chỉ đạo xây dựng 05 nhà thi hành
án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc tại 05 Công an địa phương: thành phố
Hà Nội, thành phố địa Hồ Chí Minh, Sơn La, Nghệ An và Đắc Lắk, đến nay việc xây
dựng nhà thi hành án hình sự đã hoàn thiện và đã lắp đặt đầy đủ các trang thiết
bị, dụng cụ thi hành án.
Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực từ ngày 01/7/2011,
Nghị định 82/2011/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2011 và các nhà thi hành án tử
hình cũng đã xây xong nhưng đến thời điểm hiện tại chúng ta vẫn chưa thể thực
hiện việc thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc do chưa có nguồn
thuốc. Nghị định 82/2011/NĐ-CP đã đề ra được ba loại thuốc, đó
là thuốc dùng để gây mê, thuốc làm tê liệt thần kinh, cơ bắp và thuốc dùng để
ngừng hoạt động của tim. Nhưng do không tính đến nguồn cung ứng thuốc nên sau một
năm vẫn chưa có ba loại thuốc này. Nước ta không thể nhập khẩu được thuốc, bởi
vì không quốc gia nào bán thuốc để thi hành án tử hình. Do đó phải xem xét đến
vấn đề tự sản xuất thuốc trong nước. Nhưng nếu áp dụng phương án này, chúng ta
vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu, rất khó khăn và tốn không ít thời gian và chất
lượng thuốc chưa chắc chắn đảm bảo. Điều này khiến cho hơn 500 tử tù vẫn chờ
tiêm thuốc độc, trong đó có 3 người chết do bệnh tật, 3 người tự sát, thậm chí
có người viết đơn xin được thi hành án do tâm lý căng thẳng.Việc chậm thi hành
án đã làm tăng áp lực áp lực lên cả cơ quan giam giữ và tử tù. Chúng tôi cho rằng,
Quốc hội cần cần nhắc phương án quy định tạm thời vẫn sử dụng hình thức thi
hành hình phạt tử hình bằng xử bắn cho đến khi có nguồn thuốc đảm bảo thực hiện
hình thức tiêm thuốc độc.
Mặc dù, hình thức thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc
chưa được thi hành trong thực tiễn, nhưng thông qua nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy rằng, Luật Thi hành án hình sự và Nghị định số 82/2011/NĐ-CP có một số vướng
mắc, chưa dự liệu hết được các tình huống có thể phát sinh trong thực tế thi
hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc, cụ thể:
Thứ nhất, về quy trình thi
hành án tử hình, Nghị định 82/2011/NĐ-CP quy định phải chuẩn bị đủ 3 liều thuốc (trong đó có 2 liều dự phòng); trường hợp
sau khi tiêm liều thứ nhất được mười phút mà người bị thi hành án tử hình chưa
chết, cán bộ kiểm tra phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án để ra lệnh sử
dụng thuốc dự phòng, tiếp tục thực hiện tiêm lần thứ hai; trường hợp đã tiêm hết
hai liều thuốc mà người bị thi hành án vẫn chưa chết, thì Đội trưởng Đội thi
hành án phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án ra lệnh tiêm lần thứ ba. Tuy
nhiên Nghị định chưa quy định trường hợp sau khi tiêm hết cả ba liều thuốc mà
người bị thi hành án chưa chết do thuốc không đảm bảo hoặc do một lý do nào đó
thì xử lý thế nào. Theo chúng tôi, pháp luật cần quy định rõ sau khi đã tiêm hết
ba liều thuốc mà người bị thi hành án vẫn chưa chết thì Hội đồng ra quyết định
hoãn thi hành án tử hình và sẽ cho thi hành lại khi chuẩn bị thêm thuốc và đảm
bảo chất lượng của thuốc.
Thứ hai, Luật Thi hành án hình sự và Nghị định số 82/2011/NĐ-CP
chưa dự liệu được hết các tình huống có thể xảy ra trong khi thi hành án tử
hình bằng tình huống tiêm thuốc độc như: người bị thi hành án tử hình chết
trước khi đưa ra thi hành án tử hình thì phải giải quyết như thế nào; hay
trường hợp không đủ điều kiện để thi hành án do các trang thiết bị, dụng cụ thi
hành án không đảm bảo; không lấy được tĩnh mạch để tiêm thuốc; thuốc thi hành
án tử hình không đúng chủng loại, chất lượng, số lượng; trên đường áp giải
người bị thi hành án tử hình gặp sự cố tai nạn phải đưa đến bệnh viện… thì phải
xử lý ra sao.
Theo chúng tôi, các tình huống này có thể được xử lý như
sau:
- Trường hợp người bị thi hành án tử hình chết trước khi
đưa ra thi hành án tử hình, Hội đồng thi hành án tử hình phải thông báo cho Cơ
quan điều tra, viện kiểm sát có thẩm quyền để xác định nguyên nhân cái chết.
Sau khi đã làm xong các thủ tục xác định nguyên nhân cái chết, Chủ tịch Hội
đồng thi hành án tử hình giao cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoặc
cấp quân khu nơi ra quyết định thi hành án tổ chức mai táng. Pháp luật cần quy
định rõ chi phí mai táng.
- Trường hợp không đủ điều kiện để thi hành án, thì Hội
đồng thi hành án phải căn cứ vào từng sự việc cụ thể để có kế hoạch thay đổi
địa điểm thi hành án tử hình hoặc hoãn thi hành án tử hình.
Thứ ba, Điều 58 Luật Thi hành án hình sự đã quy định cụ
thể về điều kiện và thủ tục ra quyết định hoãn thi hành án tử hình. Tuy nhiên,
về thủ tục tiếp tục thi hành án tử hình khi lý do hoãn không còn lại chưa được
quy định rõ ràng. Điều luật này chỉ quy định khi lý do hoãn không còn thì Chánh
án Tòa án ra quyết định thi hành án yêu cầu Hội đồng thi hành án tiếp tục thực
hiện việc thi hành mà chưa quy định rõ yêu cầu đó phải thể hiện bằng văn bản
như quyết định, thông báo hay có thể yêu cầu bằng miệng. Trường hợp, khi lý do
hoãn thi hành án tử hình không còn nhưng Chánh án Tòa án ra quyết định thi hành
án chưa yêu cầu Hội đồng thi hành án tiếp tục thực hiện việc thi hành thì ai là
người có thẩm quyền đề nghị tiếp tục thi hành.
Hiện nay Bộ Công an đang chủ trì xây dựng dự thảo Thông
tư liên tịch hướng dẫn việc thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc.
Những vấn đề vướng mắc trong thi hành án tử hình đã được phân tích trên đây cần
phải được dưa vào dự thảo này, để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện
thi hành án tử hình được thuận lợi, nhanh chóng, đáp ứng được yêu cầu của công
tác thi hành án nói chung.
IV. THỜI HIỆU THI HÀNH BẢN ÁN HÌNH SỰ
Thời hiệu thi hành bản án hình sự không
được quy định trong Luật Thi hành án hình sự mà được quy định tại Bộ luật Hình
sự. Tuy nhiên, để Thẩm phán nắm rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi xin đưa nội
dung này vào phân tích trong chuyên đề thi hành án hình sự.
Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời
hạn do pháp luật quy định mà khi hết thời hạn đó, người bị kết án không phải chấp
hành bản án đã tuyên.
Điều 55 Bộ luật Hình sự quy định về thời
hiệu thi hành bản án hình sự như sau:
a. Năm năm đối với các trường hợp xử phạt
tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ ba năm trở xuống;
b. Mười năm đối với các trường hợp xử
phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
c. Mười lăm năm đối với các trường hợp
xử phạt tù trên mười lăm năm đến ba mươi năm.
Khi xác định thời hiệu thi hành bản án
hình sự cần chú ý một số vấn đề sau:
- Thời hiệu thi hành bản án quy định tại
Điều 55 BLHS là thời hiệu thi hành bản án hình sự về quyết định hình phạt. Đối
với các quyết định về bồi thường thiệt hại, án phí và các quyết định khác về
tài sản thì việc xác định thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định
của Luật thi hành án dân sự.
- Thời hiệu thi
hành bản án hình sự tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp
người bị kết án lại phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 55
BLHS thì thời hiệu được tính lại kể từ ngày họ phạm tội mới.
Ví dụ: Nguyễn Văn A bị Toà án phúc thẩm
phạt 2 năm tù về tội "Cố ý gây thương tích" theo bản án số 50/HSPT
ngày 15/09/2010 và chưa bị bắt thi hành hình phạt. Ngày 01/08/2011, Nguyễn Văn
A phạm tội trộm cắp tài sản. Như vậy, thời hiệu thi hành bản án số 50/HSPT ngày
15/09/2010 là năm năm tính từ ngày 01/08/2011. Thời hiệu thi hành bản án đối với
tội trộm cắp tài sản tính từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật (nếu như bị
cáo không tiếp tục phạm tội mới).
- Trường hợp trong bản án có tổng hợp
hình phạt của nhiều tội thì căn cứ mức hình phạt để tính thời hiệu thi hành bản
án hình sự là hình phạt chung của hình phạt chính nặng nhất.
Ví dụ: Bị cáo A bị Toà án phúc thẩm
tuyên phạt về ba tội: giết người, cướp giật tài sản và cho vay nặng lãi và xử
phạt 15 năm tù về tội giết người, 3 năm tù về tội cướp giật và 20 triệu đồng về
tội cho vay nặng lãi. Tổng hợp hình phạt chung là 18 năm tù và 20 triệu đồng.
Thời hiệu thi hành bản án này mười năm (điểm b khoản 2 Điều 55 BLHS).
- Trường hợp trong bản án có nhiều người
bị kết án thì căn cứ vào mức hình phạt đối với từng người cụ thể để tính thời
hiệu thi hành bản án hình sự.
- Trong trường hợp bản án có tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án, thì căn cứ vào mức hình phạt trong mỗi bản án cụ thể
để tính thời hiệu thi hành của từng bản án hình sự cụ thể đó mà không phải căn
cứ vào mức tổng hợp hình phạt chung.
- Trường hợp người bị kết án cố tình trốn
tránh và cơ quan Công an đã cơ quyết định truy nã theo đúng quy định tại Điều
161 BLTTHS, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu thi hành bản
án hình sự tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ.
"Cố tình trốn tránh" là cố
tình giấu địa chỉ, ẩn náu, thay đổi họ tên, hình dạng… làm cho cơ quan có thẩm
quyền thi hành án không biết họ ở đâu hoặc không phát hiện được.
Trường hợp người bị kết án cố tình trốn
tránh, nhưng cơ quan công an không ra quyết định truy nã hoặc có ra quyết định
truy nã, nhưng không đúng quy định tại Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự (Trừ những
việc không thể thực hiện được, như phải dán ảnh kèm theo nhưng không có ảnh),
thì thời gian trốn tránh vẫn được tính để xác định thời hiệu thi hành bản án
hình sự.
- Trường hợp người bị kết án phạt tù được
hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và khi hết thời hạn được hoãn hoặc
tạm đình chỉ mà Chánh án Toà án đã ra các quyết định này không ra quyết định
thi hành án theo khoản 2 Điều 261 hoặc điểm b khoản 1 Điều 262 Bộ luật Tố tụng
hình sự hoặc có ra quyết định thi hành hình phạt tù, nhưng người bị kết án không
trốn tránh, thì cũng được hưởng thời hiệu thi hành bản án. Thời hiệu thi hành bản
án hình sự được tính kể từ ngày hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù và căn cứ vào mức hình phạt tù còn lại mà người bị kết án chưa chấp
hành.
PHẦN THỨ HAI:
GIỚI THIỆU NỘI DUNG MỘT SỐ VĂN BẢN MỚI HƯỚNG DẪN THI HÀNH LUẬT THI HÀNH ÁN
HÌNH SỰ
I. THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
SỐ 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC NGÀY 14/ 08/2012 HƯỚNG DẪN RÚT NGẮN THỜI GIAN THỬ THÁCH CỦA ÁN
TREO
1. Điều
kiện và mức rút ngắn thời gian thử thách của án treo
1.1. Điều kiện rút ngắn thời gian thử thách của án treo
Người được hưởng án
treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định
rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau:
- Đã chấp hành được
một phần hai thời gian thử thách của án treo;
- Có nhiều tiến bộ, được thể hiện bằng việc trong thời
gian thử thách thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được hưởng án treo; chấp
hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế nơi làm việc;
tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm; thực hiện đầy đủ các hình phạt
bổ sung, nghĩa vụ khác theo quyết định của bản án;
- Được Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị
quân đội được giao giám sát giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn
thời gian thử thách bằng văn bản.
1.2. Về mức rút ngắn thời gian thử thách của án treo
Người được hưởng án
treo một năm chỉ được rút ngắn thời gian thử thách một lần từ một tháng đến một
năm. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần,
nhưng phải bảo đảm thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư thời
gian thử thách Tòa án đã tuyên.
Quy định này có phần mới và mở rộng thời gian “rút ngắn”
hơn. Trước đây, tại Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-1007 của Họi đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chỉ quy định mỗi lần người được hưởng án treo
có thể được Tòa án quyết định rút ngắn thời gian thử thách từ 3 tháng đến một
năm.
- Trường hợp người được hưởng án treo đã được cơ quan có
thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, nhưng
không được Tòa án chấp nhận, nếu sau đó có tiến bộ mới thì Ủy ban nhân dân cấp
xã, đơn vị quân đội được giao giám sát giáo dục người được hưởng án treo tiếp tục
đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho họ.
- Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo và có đủ các điều kiện nêu trên thì Tòa án có thể quyết định rút ngắn
hết thời gian thử thách còn lại.
2. Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền đề nghị rút ngắn thời
gian thử thách của án treo
- Khi người được hưởng án treo có đủ điều kiện được hướng
dẫn tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 09 thì Trưởng Công an cấp xã có trách nhiệm
giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị Cơ quan
Thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành án treo cư trú xem
xét việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo; Thủ trưởng
đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tổ chức
cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị Cơ quan Thi hành án hình sự cấp quân khu nơi
người được hưởng án treo làm việc xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách cho
người được hưởng án treo.
- Cuộc họp xét, đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian
thử thách cho người được hưởng án treo của Ủy ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chủ trì với thành phần tham gia gồm đại
diện lãnh đạo Công an, Mặt trận tổ quốc, Tư pháp cấp xã, người được giao trực
tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Cuộc họp xét, đề nghị xem xét
việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo của đơn vị quân
đội do Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng đơn vị quân đội chủ trì với thành phần
tham gia gồm đại diện các tổ chức đoàn thể trong đơn vị quân đội, người được
giao trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
- Hồ sơ đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách
của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội (tại khoản 3 Điều 5 của Thông
tư liên tịch số 08/2012)
- Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách của Ủy ban nhân dân cấp
xã, đơn vị quân đội thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan
thi hành án hình sự cấp quân khu phải lập
hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo theo quy định tại khoản
1 Điều 66 Luật Thi hành án hình sự, văn bản đề nghị rút ngắn thời gian thử
thách của cơ quan thi hành án và chuyển hồ sơ, văn bản đề nghị cho Tòa án cấp
huyện nơi người được hưởng án treo cư trú, Tòa án quân sự khu vực nơi người được
hưởng án treo làm việc xem xét, quyết định. Đồng thời sao gửi hồ sơ cho Viện kiểm
sát cùng cấp để thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc rút ngắn
thời gian thử thách của án treo.
3. Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét, quyết định rút
ngắn thời gian thử thách của án treo
- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ
sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, Chánh án Tòa án nhân dân cấp
huyện nơi người chấp hành án treo cư trú, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi
người chấp hành án treo làm việc phải thành lập Hội đồng xét rút ngắn thời gian
thử thách của án treo và phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đề nghị rút ngắn
thời gian thử thách của án treo. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày
thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công phải ấn định ngày mở phiên họp xét rút
ngắn thời gian thử thách của án treo và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết để cử Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Thời hạn mở phiên họp
không vượt quá mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị rút ngắn
thời gian thử thách của án treo.
Trường hợp cần phải bổ sung tài liệu hoặc tài liệu chưa
rõ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự bổ sung hoặc làm rõ thêm.
Trong trường hợp này, thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày Tòa án nhận được
tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản về vấn đề cần làm rõ thêm.
- Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo gồm
ba Thẩm phán hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm (đối với Tòa án cấp huyện, Tòa
án quân sự khu vực không có đủ ba Thẩm phán), có sự tham gia của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cùng cấp.
- Hội đồng có thể mở phiên họp tại trụ sở của Tòa án hoặc
tại trụ sở của Cơ quan Thi hành
án hình sự đã lập hồ sơ đề nghị.
- Trình tự, thủ tục xét rút ngắn thời gian thử thách của
án treo tiến hành như sau:
+ Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
+ Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến;
+ Hội đồng thảo luận và quyết định.
- Trên cơ sở hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát,
Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo có quyền:
+ Chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách
của án treo. Trường hợp chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách
của án treo mà thời gian thử thách còn lại không quá một tháng, thì Hội đồng có
thể quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại;
+ Chấp nhận một phần đề nghị rút ngắn thời gian thử thách
của án treo;
+ Không chấp nhận đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của
án treo.
- Nội dung quyết định về việc rút ngắn thời gian thử
thách của án treo (quy định tại khoản 6
Điều 6 Thông tư liên tịch số 08).
- Việc gửi quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án
treo theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Thi hành án hình sự.
- Quyết định về việc rút ngắn thời gian thử thách của án
treo của Tòa án có thể bị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát
cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là mười lăm ngày, kể từ ngày
Tòa án ra quyết định.
Việc phúc thẩm quyết định của Tòa án về rút ngắn thời
gian thử thách của án treo được thực hiện theo quy định tại Điều 253 của Bộ luật
tố tụng hình sự.
- Quyết định của Tòa án về việc rút ngắn thời gian thử
thách của án treo có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm.
II.THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
SỐ 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC NGÀY 16/08/2012 HƯỚNG DẪN VIỆC GIẢM, MIỄN THỜI HẠN CHẤP HÀNH
ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ MIỄN CHẤP HÀNH THỜI HẠN CẤM CƯ TRÚ, QUẢN CHẾ
CÒN LẠI
1. Những quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt cải
tạo không giam giữ
1.1. Điều kiện, mức
giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
- Điều kiện giảm thời
hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ:
Đã chấp hành được
một phần ba thời hạn án phạt; đối với người chưa thành niên là một phần tư thời
hạn án phạt và có nhiều tiến bộ.
- Mức giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ:
+ Người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ mỗi năm
được xét giảm thời hạn chấp hành án một lần, mỗi lần có thể được giảm từ ba
tháng đến chín tháng. Trường hợp trong năm đó, sau khi được giảm thời hạn chấp
hành án mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lập công mới hoặc bị mắc
bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm tiếp nhưng tối đa là hai lần trong một
năm.
+ Người chấp hành
án phạt cải tạo không giam giữ có thể được giảm nhiều lần nhưng phải đảm bảo thời
gian thực tế chấp hành án là một phần hai mức án, đối với người chấp hành án phạt
cải tạo không giam giữ là người chưa thành niên thì phải đảm bảo thời gian thực
tế chấp hành án phạt là hai phần năm mức án.
- Giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp
đặc biệt:
+ Người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đã lập
công, đã quá già yếu hoặc bị bệnh hiểm nghèo đã chấp hành được một phần tư thời
hạn án phạt thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án, mức giảm mỗi lần
cao nhất là một năm, nhưng phải đảm bảo thời gian thực tế chấp hành án là hai
phần năm mức án.
+ Người chưa thành niên chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ nếu lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay. Trường hợp
đã chấp hành được hai phần năm mức án mà sau khi được xét giảm, thời hạn chấp
hành án còn lại không quá một năm thì có thể được giảm hết thời hạn còn lại.
1.2. Thủ tục đề nghị
giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
- Khi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có đủ
điều kiện nêu trên thì Trưởng Công an cấp xã nơi người chấp hành án cư trú có
trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cuộc họp hoặc Thủ trưởng đơn vị
quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ phải tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị Cơ quan thi hành án hình
sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cư trú
hoặc đề nghị Cơ quan Thi hành án hình sự
cấp quân khu nơi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ làm việc để xem
xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cho họ.
- Cuộc họp xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải
tạo không giam giữ của Ủy ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã chủ trì với thành phần tham gia gồm: đại diện Mặt trận tổ
quốc, Công an, Tư pháp cấp xã và sự có mặt của người được giao trực tiếp giám
sát, giáo dục người chấp hành án. Cuộc họp xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành
án phạt cải tạo không giam giữ của đơn vị quân đội do Thủ trưởng hoặc phó Thủ
trưởng đơn vị quân đội chủ trì, thành phần tham gia gồm: đại diện các tổ chức
đoàn thể trong đơn vị quân đội và người
được giao trực tiếp giám sát, giáo dục người chấp hành án.
- Hồ sơ đề nghị xem xét việc giảm thời hạn chấp hành án
phạt cải tạo không giam giữ (quy định tại
khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 09/2012).
- Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đề nghị xem xét việc giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam
giữ của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội, Cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải lập hồ gửi
Tòa án nhân dân cùng cấp hoặc Tòa án quân sự khu vực để xem xét, quyết định. Đồng
thời, sao gửi hồ sơ đề nghị cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
1.3. Về thủ tục xét,
quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ
sơ đề nghị, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành án phạt cải
tạo không giam giữ cư trú hoặc Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ làm việc phải thành lập Hội đồng xét giảm
thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và phân công Thẩm phán nghiên
cứu hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ. Trong
thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công
phải ấn định ngày mở phiên họp xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử
Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Thời hạn mở phiên họp không quá mười lăm ngày,
kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ.
Trường hợp cần bổ sung tài liệu hoặc tài liệu chưa rõ thì
Thẩm phán yêu cầu cơ quan đề nghị bổ sung hoặc làm rõ thêm. Trong trường hợp
này, thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày Tòa án nhận được tài liệu bổ sung
hoặc ý kiến bằng văn bản về vấn đề cần làm rõ thêm.
- Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ gồm ba Thẩm phán hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm (đối với Tòa
án cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực
không có đủ ba Thẩm phán), có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng
cấp.
- Trình tự, thủ tục xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải
tạo không giam giữ:
+ Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
+ Đại diện Viện kiểm sát phát biểu;
+ Hội đồng thảo luận và quyết định.
- Trên cơ sở hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát,
Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ quyết định:
+ Chấp nhận toàn bộ hoặc một phần đề nghị giảm thời hạn
chấp hành án.
Trường hợp chấp nhận toàn bộ đề nghị giảm thời hạn chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ, mà thời hạn chấp hành án còn lại dưới một
tháng thì Hội đồng có thể quyết định giảm hết thời hạn còn lại.
+ Không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành án;
- Nội dung quyết định về việc giảm thời hạn chấp hành án
phạt cải tạo không giam giữ (quy định tại
khoản 5 Điều 13 Thông tư liên tịch số 09/2012).
2. Những quy định về miễn chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ
2.1. Điều kiện để miễn chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ
Người bị phạt cải tạo không giam giữ có thể được miễn chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ khi có đủ hai điều kiện: Đã lập công lớn hoặc
mắc bệnh hiểm nghèo và không còn nguy hiểm cho xã hội.
2.2. Thủ tục đề nghị
miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
- Trường hợp người bị kết án cải tạo không giam giữ đã có
quyết định thi hành án, nhưng chưa chấp hành án mà có đủ các điều kiện quy định
tại Điều 11 Thông tư số 09 thì Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện hoặc Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người chấp hành
án cư trú hoặc làm việc tự mình hoặc theo đề nghị của Cơ quan Thi hành án hình
sự Công an cấp huyện, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu xem xét, lập hồ
sơ đề nghị Toà án cùng cấp xét miễn chấp hành án.
- Trường hợp người bị kết án cải tạo không giam giữ đang
chấp hành án nếu có đủ các điều kiện quy định tại Điều 11 Thông tư liên tịch số
09/2012 và có đơn xin miễn chấp hành án thì Trưởng Công an cấp xã có nhiệm vụ
giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cuộc họp hoặc Thủ trưởng đơn vị quân đội phải
tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị
Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc Cơ quan Thi hành án hình sự
cấp quân khu nơi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cư trú hoặc làm
việc xem xét, đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cho họ.
Cuộc họp xét, đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ của Ủy ban nhân dân cấp
xã do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chủ trì với thành phần
tham gia gồm: đại diện Mặt trận tổ quốc, Công an, Tư pháp cấp xã và sự có mặt của
người được giao trực tiếp giám sát, giáo dục người chấp hành án; cuộc họp xét,
đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ của đơn vị quân đội
do Thủ trưởng hoặc phó Thủ trưởng đơn vị
quân đội chủ trì với thành phần tham gia gồm đại diện các tổ chức đoàn thể
trong đơn vị quân đội và sự có mặt của người được giao trực tiếp giám sát, giáo
dục người chấp hành án.
- Hồ sơ đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam
giữ (quy định tại khoản 3 Điều 12 Thông
tư liên tịch số 09/2012).
- Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đề nghị xem xét việc miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ của Ủy
ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp
huyện hoặc Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm xem xét, đề
nghị bằng văn bản kèm theo hồ sơ đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị
quân đội gửi Viện kiểm sát cấp huyện hoặc Viện kiểm sát quân sự khu vực để xem
xét, đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề
nghị của cơ quan thi hành án hình sự, Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, lập
hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật Thi hành án hình sự đề nghị Tòa án
cùng cấp xem xét, quyết định.
2.3. Thủ tục xét,
quyết định miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ
sơ đề nghị, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Chánh án Tòa án quân sự khu
vực nơi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cư trú hoặc làm việc phải
thành lập Hội đồng xét miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và phân
công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán
được phân công phải ấn định ngày mở phiên họp xét miễn chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử
Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Thời hạn mở phiên họp không quá mười lăm ngày,
kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ.
Trường hợp cần phải bổ sung tài liệu hoặc tài liệu chưa
rõ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan đề nghị bổ sung tài liệu hoặc làm rõ thêm.
Trong trường hợp này, thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày Tòa án nhận được
tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản về vấn đề cần làm rõ thêm.
- Hội đồng xét miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam
giữ gồm ba Thẩm phán hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm (đối với Tòa án cấp huyện
Tòa án quân sự khu vực không có đủ ba Thẩm phán), có sự tham gia của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp.
- Trình tự xét miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam
giữ:
+ Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
+ Đại diện Viện kiểm sát phát biểu;
+ Hội đồng thảo luận và quyết định.
- Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm
sát, Hội đồng xét miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ quyết định:
+ Chấp nhận đề nghị miễn chấp hành án;
+ Không chấp nhận đề nghị miễn chấp hành án;
- Nội dung quyết định miễn hoặc không chấp nhận miễn chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ (quy
định tại khoản 5 Điều 13 Thông tư số 09/2012).
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong việc thi
hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ thời gian qua, căn cứ vào khả
năng về lực lượng, tổ chức bộ máy và các điều kiện bảo đảm khác của Công an cấp
xã, Luật đã quy định giao cho Trưởng Công an cấp
xã có nhiệm vụ tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn quy định tại Điều 63 và Điều 74.
3. Miễn chấp hành thời
hạn cấm cư trú, quản chế còn lại
3.1. Điều kiện miễn
chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại
Theo quy định tại Điều 14 Thông tư số 09/2012/TTLT thì điều
kiện miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế là phải chấp hành được một phần
hai thời hạn án phạt và cải tạo có tiến bộ.
3.2. Thủ tục đề nghị
miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại
- Người chấp hành án phạt cấm cư trú hoặc quản chế có đủ
các điều kiện quy định tại Điều 14 Thông tư số 09 và có đơn xin miễn chấp hành
thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại, thì Trưởng Công an cấp xã nơi người bị
phạt cấm cư trú hoặc quản chế chấp hành án có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cấp
xã tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị Cơ quan Thi hành án hình sự Công an
cấp huyện xem xét, đề nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn
lại cho họ.
- Hồ sơ đề nghị xem xét việc miễn chấp hành thời hạn cấm
cư trú hoặc quản chế còn lại (quy định tại
khoản 2 Điều 15 Thông tư số 09/2012).
- Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp
xã, nếu thấy việc miễn chấp hành thời hạn án phạt cấm cư trú, quản chế còn lại
cho người chấp hành án không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì
Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện lập hồ sơ theo quy định tại khoản
1 Điều 86 hoặc khoản 1 Điều 95 của Luật thi hành án hình sự và làm văn bản đề
nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại gửi Tòa án cùng cấp
nơi người chấp hành án cư trú xem xét, quyết định. Đồng thời, sao gửi hồ sơ đề nghị miễn chấp hành thời hạn
cấm cư trú, quản chế còn lại cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
3.3. Thủ tục xét,
quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại
- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ
sơ đề nghị, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành án cư trú phải
thành lập Hội đồng xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại và
phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đề nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư
trú, quản chế còn lại. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ
sơ, Thẩm phán được phân công phải ấn định ngày mở phiên họp xét miễn chấp hành
thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết để cử Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Thời hạn mở phiên họp
không quá mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị. Trường hợp
cần phải bổ sung hồ sơ hoặc hồ sơ chưa rõ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan đề nghị
bổ sung hoặc làm rõ thêm. Trong trường hợp này, thời hạn mở phiên họp được tính
từ ngày Tòa án nhận được tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản về vấn đề cần
làm rõ thêm.
- Hội đồng xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản
chế còn lại gồm ba Thẩm phán hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm (đối với Tòa án
cấp huyện không có đủ ba Thẩm phán), có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm
sát cùng cấp.
- Trình tự xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản
chế còn lại:
+ Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
+ Đại diện Viện kiểm sát phát biểu;
+ Hội đồng thảo luận và quyết định.
- Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm
sát, Hội đồng xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại quyết
định:
+ Chấp nhận đề nghị miễn chấp hành thời hạn án phạt còn lại;
+ Không chấp nhận đề nghị miễn chấp hành thời hạn án phạt
còn lại;
- Nội dung quyết định miễn hoặc không chấp nhận miễn chấp
hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại (quy định tại khoản 5 Điều 16 Thông tư số 09/2012)
4. Kháng nghị và phúc thẩm Quyết
định giảm, miễn thời hạn chấp hành án
- Quyết định của Tòa án về việc giảm, miễn thời hạn chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản
chế còn lại có thể bị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát
cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là mười lăm ngày, kể từ ngày
Tòa án ra quyết định.
- Việc phúc thẩm quyết định của Tòa án về việc giảm, miễn
thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm
cư trú, quản chế còn lại được thực hiện theo quy định tại Điều 253 của Bộ luật
tố tụng hình sự.
- Quyết định của Tòa án về việc giảm, miễn thời hạn chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản
chế còn lại không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
III. THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
SỐ 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP NGÀY 10-05-2012 HƯỚNG DẪN TRÌNH TỰ,
THỦ TỤC TRA CỨU, XÁC MINH, TRAO ĐỔI, CUNG CẤP THÔNG TIN LÝ LỊCH TƯ PHÁP
Căn cứ Luật Lý lịch tư pháp
ngày 17 tháng 6 năm 2009; Luật Thi hành án hình sự ngày 17 tháng 6 năm 2010;
Luật Thi hành án dân sự ngày 14 tháng 11 năm 2008; Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2010 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp;
Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Công an
và Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT hướng dẫn
trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư
pháp (sau đây gọi tắt là Thông tư liên
tịch số 04/2012) có những nội dung cơ bản sau:
1. Khái niệm và ý nghĩa
của lý lịch tư pháp
1.1. Khái niệm lý lịch
tư pháp
Lý lịch tư pháp là lý lịch về án tích của người
bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản
lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường
hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản.
1.2. Ý nghĩa của lý
lịch tư pháp
Ngày nay, lý lịch tư pháp có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống dân sự của công dân, cũng như trong quản lý nhân sự và hỗ trợ hoạt động tố
tụng hình sự. Điều đó được biểu hiện cụ thể như sau:
- Lý lịch tư pháp đáp ứng yêu cầu của cá nhân cần chứng
minh bản thân có hay không có án tích, hoặc có các vấn đề về pháp lý hình sự
hay không. Những thông tin lý lịch tư pháp về cá nhân được cung cấp dưới hình
thức Phiếu lý lịch tư pháp và được lưu trữ theo quy định. Phiếu lý lịch tư pháp
giúp cá nhân chứng minh về tình trạng tiền án…theo yêu cầu của các cơ quan hữu
quan.
- Là nguồn cung cấp những thông tin chính thức về quá khứ
nhân thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xem xét các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với họ trong khi giải quyết những vụ việc cụ
thể. Trong truy tố, xét xử thì có thể xác định bị can, bị cáo tái phạm hay
không tái phạm.
- Lý lịch tư pháp ghi nhận việc xoá án tích của người bị
kết án. Có ý nghĩa trong việc thực hiện chính sách tái hoà nhập cộng đồng của
người phạm tội. Sau một thời gian chấp hành đầy đủ những người phạm tội đã được
cải tạo, giáo dục, tái hòa nhập cộng đồng khi có yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư
pháp, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp sẽ cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người đó
và trong nội dung của Phiếu lý lịch tư pháp sẽ ghi là “không có án tích” và được
coi như chưa bị kết án và không bị phân biệt đối xử.
- Lý lịch tư pháp là một trong những nguồn thông tin để
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị… xem xét, đánh giá tư cách đạo đức của
cá nhân (chứng minh cá nhân có hay không có tiền án). Nhiều nước có quy định về
việc phải có Phiếu lý lịch tư pháp khi xem xét việc xuất cảnh, nhập cảnh, cho
nhập, thôi, trở lại quốc tịch, nuôi con nuôi, cấp một số chứng chỉ hành nghề
(luật sư, kiểm toán, y dược) tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài tại nước
sở tại, du học....
2. Nhiệm vụ, quyền hạn tra cứu, xác minh, cung cấp thông
tin lý lịch tư pháp
2.1. Tòa án
- Tòa án nhân dân tối cao giao cho các Tòa phúc thẩm, Ban
thư ký Tòa án nhân dân tối cao
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi là Tòa án nhân dân cấp tỉnh) giao cho bộ phận làm nhiệm
vụ tống đạt bản án hình sự thực hiện.
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi là Tòa án nhân dân cấp huyện) giao cho công chức
làm nhiệm vụ tống đạt bản án hình sự thực hiện.
- Tòa án quân sự Trung ương thực hiện nhiệm vụ cung cấp
thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án quân sự kết án.
2.2. Viện kiểm sát
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao cho
Vụ Hợp tác quốc tế và Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử thực hiện.
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh) giao cho Văn
phòng thực hiện.
2.3. Công an
- Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thuộc Bộ Công an, Phòng Hồ
sơ nghiệp vụ Công an cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ tra cứu, xác minh, cung cấp
thông tin có trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 để cấp Phiếu lý lịch tư pháp;
- Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam, Phòng Cảnh
sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh cung cấp giấy chứng
nhận đã chấp hành xong án phạt tù, giấy chứng nhận đặc xá, đại xá có từ ngày 01
tháng 7 năm 2010;
- Cục theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp cung
cấp thông báo về việc thi hành quyết định tiếp nhận chuyển giao người đang chấp
hành án phạt tù từ nước ngoài về Việt Nam; quyết định chuyển giao người đang chấp
hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài; thông báo về quyết định đặc xá, đại
xá, miễn, giảm hình phạt của nước chuyển giao đối với người đang chấp hành án
phạt tù từ nước ngoài về Việt Nam;
- Phòng Cảnh sát
thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh cung cấp thông báo về việc
thi hành án phạt trục xuất;
- Công an cấp huyện (Bộ phận thi hành án hình sự và hỗ trợ
tư pháp) cung cấp giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách án treo,
án phạt cải tạo không giam giữ, án phạt cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền
công dân, án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định có từ ngày 01-07-2010.
3. Hình thức và phương thức cung cấp thông tin lý lịch tư
pháp
3.1. Hình thức cung
cấp thông tin lý lịch tư pháp
Thông tin lý lịch
tư pháp được gửi một trong các hình thức sau:
- Trích lục bản án hình sự( bản chính hoặc bản sao bản
án);
- Quyết định, giấy chứng nhận, giấy xác nhận, văn bản
thông báo (bản chính hoặc bản sao);
- Văn bản định dạng PDF (có chữ ký và con dấu)
trong trường hợp cung cấp qua mạng máy tính. Việc cung cấp thông tin qua mạng
máy tính phải bảo đảm tính bảo mật, an toàn, chính xác của thông tin;
- Đối với thông tin lý lịch tư pháp có trước ngày 01
tháng 7 năm 2010, ngoài hình thức nêu trên, có thể được gửi dưới hình thức công
văn trả lời.
3.2. Phương thức cung cấp lý lịch tư pháp
Thông tin lý lịch tư pháp được gửi bằng một trong các
phương thức như trực tiếp, qua bưu điện, mạng máy tính.
4. Các trường hợp và thời hạn cung cấp thông tin có trước
ngày 01-07-2010
4.1. Các trường hợp
cung cấp thông tin lý lịch tư pháp
- Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp liên quan đến bản án hình sự, quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm và quyết định thi hành án hình sự
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn
bản đề nghị cung cấp thông tin lý lịch tư pháp, Tòa án có nhiệm vụ gửi thông
tin lý lịch tư pháp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã đề
nghị.
- Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp liên quan đến việc đặc xá
Tòa án đã cấp giấy chứng nhận đặc xá trong trường hợp người
bị kết án được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có nhiệm vụ cung cấp
thông tin về việc đặc xá cho Trung tâm
Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã đề nghị.
- Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp liên quan đến việc thi hành án phạt
trục xuất
Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công
an cấp tỉnh có nhiệm vụ cung cấp thông tin về việc thi hành án phạt trục xuất
cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã đề nghị.
- Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp liên quan đến việc chấp hành xong án
phạt cải tạo không giam giữ, án treo và các hình phạt bổ sung
Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức đã cấp giấy chứng
nhận chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ, án treo, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một
số quyền công dân có nhiệm vụ cung cấp thông tin về việc chấp hành xong án phạt
cải tạo không giam giữ, án treo, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân cho Trung
tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã đề nghị.
- Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án quân sự kết án
Tòa án quân sự Trung ương có nhiệm vụ cung cấp thông tin
lý lịch tư pháp của người bị Tòa án quân sự kết án cho Trung tâm Lý lịch tư
pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã đề nghị.
- Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã trong đó có nội dung cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý
doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiệm vụ gửi quyết định tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã có hiệu lực pháp luật cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ
sở.
4.2. Thời hạn cung cấp thông tin lý lịch tư pháp
Theo quy định tại các điều từ Điều 6 đến Điều 11 Thông tư
liên tịch này là 10 ngày làm việc, kể từ ngày các cơ quan, tổ chức nhận
được văn bản đề nghị cung cấp thông tin của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia
hoặc Sở Tư pháp.
5. Các trường hợp cung cấp thông tin
lý lịch tư pháp từ ngày 01-07-2010
5.1. Thông tin lý lịch
tư pháp về án tích do Tòa án cung cấp
- Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án gửi cho Sở Tư pháp nơi
Toà án đó có trụ sở trích lục bản án hình sự hoặc bản án hình sự; trường hợp vụ
án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì Tòa án đã xét xử phúc thẩm cung cấp bản
án phúc thẩm kèm theo bản án sơ thẩm.
- Trường hợp bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực
pháp luật được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì Ban thư ký Tòa
án nhân dân tối cao có nhiệm vụ gửi cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.
- Tòa án đã ra các
quyết định sau đây có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở:
1, Quyết định thi hành án phạt tù, án treo, án phạt cải tạo
không giam giữ trong trường hợp người bị kết án phải chấp hành án phạt tù, án
treo, án phạt cải tạo không giam giữ;
2, Quyết định thi hành án phạt trục xuất trong trường hợp
người bị kết án phải chấp hành án phạt trục xuất;
3, Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù trong trường hợp
người bị kết án phải chấp hành án phạt tù mà được hoãn thi hành án;
4, Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường
hợp người bị kết án đang chấp hành án phạt tù nhưng được tạm đình chỉ thi hành
án;
5, Quyết định miễn chấp hành án phạt tù có thời hạn, án
phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp người bị kết án được miễn chấp
hành án phạt tù có thời hạn, án phạt cải tạo không giam giữ;
6, Quyết định miễn chấp hành án phạt cấm cư trú, án phạt
quản chế trong trường hợp người bị kết án được miễn chấp hành án phạt cấm cư
trú, án phạt quản chế;
7, Quyết định giảm chấp hành án phạt tù, án phạt cải tạo
không giam giữ trong trường hợp người bị kết án được giảm chấp hành án phạt tù,
án phạt cải tạo không giam giữ;
8, Quyết định rút ngắn thời gian thử thách án treo trong
trường hợp người bị kết án được rút ngắn thời gian thử thách án treo;
9, Quyết định đình chỉ việc chấp hành án phạt tù trong
trường hợp người bị kết án đang chấp hành án phạt tù chết;
10, Quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp người
được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù chết;
11, Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với
khoản thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp người bị kết án được miễn, giảm
nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước.
- Tòa án đã cấp giấy chứng nhận đặc xá trong trường hợp
người bị kết án được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có nhiệm vụ gửi giấy
chứng nhận đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.
- Tòa án đã ra quyết định xóa án tích hoặc cấp giấy chứng
nhận xóa án tích có nhiệm vụ gửi quyết định, giấy chứng nhận đó cho Sở Tư pháp
nơi Tòa án có trụ sở.
- Tòa án đã ra quyết định thi hành án tử hình có nhiệm vụ
gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở. Trường hợp người bị kết
án tử hình được Chủ tịch nước quyết định ân giảm án tử hình thì Tòa án đã xét xử
sơ thẩm vụ án có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.
- Tòa án đã ra quyết định tiếp nhận chuyển giao, quyết định
thi hành quyết định tiếp nhận chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù ở
nước ngoài về Việt Nam có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án
có trụ sở.
- Tòa án đã ra quyết định chuyển giao người đang chấp
hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở
Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.
- Thời hạn gửi trích lục bản án hình sự, bản án hình sự,
quyết định, giấy chứng nhận quy định nêu trên được quy định tại khoản 9 Điều 13
Thông tư số 04/2012.
- Đối với thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã do Tòa án cung cấp
Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã, trong đó có nội dung cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý
doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiệm vụ gửi cho Sở Tư pháp nơi Toà án đó có trụ sở
quyết định tuyên bố phá sản hoặc trích lục quyết định tuyên bố phá sản (theo mẫu
ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
ngày quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Đối với thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án quân sự kết án
Việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của người bị kết
án là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân
quân, tự vệ phối hợp với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những
người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản
lý theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH ngày 04
tháng 11 năm 2002 về việc tổ chức Tòa án quân sự (sau đây gọi là Pháp lệnh số
04/2002/PL-UBTVQH) được thực hiện như sau:
+ Trường hợp Toà án quân sự xét xử vụ án hoặc ra quyết định
hoặc nhận được bản án, quyết định quy định tại khoản 1, 2, các điểm từ điểm a đến
điểm đ, các điểm từ điểm g đến điểm l khoản 3 và các khoản từ khoản 4 đến khoản
6 Điều 13 Thông tư liên tịch này
thì Tòa án đó có nhiệm vụ gửi cho Toà án quân sự Trung ương bản án hình sự đã
có hiệu lực pháp luật, quyết định, giấy chứng nhận;
+ Viện kiểm sát đã ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành
án phạt tù để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người đã
bị Tòa án quân sự xét xử có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Tòa án quân sự
Trung ương;
+ Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Quốc
phòng, giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam cấp quân khu có nhiệm vụ gửi
cho Toà án quân sự Trung ương giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt tù, giấy
chứng nhận đặc xá, đại xá;
+ Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có nhiệm vụ gửi
cho Tòa án quân sự Trung ương giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cải tạo
không giam giữ, giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo;
+ Phòng thi hành án cấp quân khu có nhiệm vụ gửi cho
Toà án quân sự Trung ương quyết định thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản,
án phí và các nghĩa vụ dân sự khác của người bị kết án trong bản án hình sự;
quyết định đình chỉ thi hành án (nếu có); giấy xác nhận kết quả thi hành án (nếu
có). Trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tiền, tịch thu tài
sản, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác trong bản án hình sự thì cơ quan thi
hành án cấp quân khu thông báo bằng văn bản (theo mẫu ban hành kèm theo Thông
tư liên tịch này) cho Tòa án quân sự Trung ương;
+ Thời hạn gửi trích lục bản án hình sự, bản án hình sự,
quyết định, giấy chứng nhận quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được thực hiện
theo quy định tại khoản 9 Điều 13 Thông tư liên tịch này.
- Sau khi người bị kết án đã chấp hành xong bản án hoặc
được đặc xá, đại xá mà không tiếp tục phục vụ trong quân đội nữa thì Toà án
quân sự Trung ương có nhiệm vụ gửi toàn bộ thông tin lý lịch tư pháp của người
đó cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
ngày người bị kết án đã chấp hành xong bản án hoặc được đặc xá, đại xá.
2. Trường hợp người bị Tòa án quân sự kết án thuộc đối tượng
quy định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH thì Tòa án quân sự
Trung ương có nhiệm vụ gửi toàn bộ thông tin lý lịch tư pháp của người đó cho
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được thông tin do các cơ quan, đơn vị có liên quan cung cấp.
5.2. Thông tin lý lịch
tư pháp do Viện kiểm sát cung cấp
- Vụ Hợp tác quốc tế gửi cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc
gia trích lục bản án, trích lục án tích của công dân Việt Nam do cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài cung cấp trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được trích lục bản án, trích lục án tích.
- Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử gửi cho
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù
trong trường hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn
10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đã ra quyết định tạm
đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Viện kiểm sát đó có trụ
sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
5.3. Thông tin lý lịch
tư pháp về án tích do cơ quan Công an cung cấp
- Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam, Phòng Cảnh
sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh có nhiệm vụ gửi
cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt
tù, giấy chứng nhận đặc xá, đại xá trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
ngày cấp giấy chứng nhận.
- Cục Theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có
nhiệm vụ gửi thông báo về việc thi hành quyết định tiếp nhận chuyển giao người
đang chấp hành án phạt tù từ nước ngoài về Việt Nam, quyết định chuyển giao người
đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài, thông báo về quyết định
đặc xá, đại xá, miễn, giảm hình phạt của nước chuyển giao đối với người đang chấp
hành án phạt tù cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 10 ngày
làm việc, kể từ ngày thi hành quyết định hoặc kể từ ngày nhận được thông báo.
- Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp
Công an cấp tỉnh có nhiệm vụ gửi cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia văn bản
thông báo về việc thi hành án phạt trục xuất trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể
từ ngày thi hành xong án phạt trục xuất.
- Công an cấp huyện có nhiệm vụ cung cấp các thông tin
sau đây:
+ Giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách
án treo, án phạt cải tạo không giam giữ cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định
thi hành án có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày cấp giấy chứng
nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 62, khoản 3 Điều 73 Luật Thi hành án hình
sự;
+ Giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cấm cư trú,
án phạt quản chế, án phạt tước một số quyền công dân, án phạt cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định cho Sở Tư pháp nơi cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể
từ ngày cấp giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 82, khoản 3 Điều
89, khoản 5 Điều 103 và khoản 5 Điều 107 Luật Thi hành án hình sự.
5.4. Thông tin lý lịch
tư pháp do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp
- Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự
huyện đã ra quyết định thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí và các
nghĩa vụ dân sự khác của người bị kết án trong bản án hình sự; quyết định đình
chỉ thi hành án (nếu có); giấy xác nhận kết quả thi hành án (nếu có) có nhiệm vụ
gửi quyết định, giấy xác nhận đó cho Sở Tư pháp nơi cơ quan thi hành án có trụ
sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định hoặc cấp giấy xác
nhận.
- Trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt
tiền, tịch thu tài sản, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác trong bản án hình sự
thì Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự huyện thông báo bằng
văn bản (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) cho Sở Tư pháp nơi
cơ quan thi hành án có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày người
bị kết án đã chấp hành xong nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự.
6. Tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp
để cấp phiếu lý lịch tư pháp
6.1. Tra cứu, xác
minh thông tin lý lịch tư pháp có trước ngày 01-07-2010 tại cơ quan Công an
- Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thuộc Bộ Công an, Phòng hồ
sơ nghiệp vụ Công an cấp tỉnh thực hiện
tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về án tích để cấp Phiếu
lý lịch tư pháp
- Khi nhận được đề nghị của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc
gia, Sở Tư pháp, Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thuộc Bộ Công an, Phòng Hồ sơ
nghiệp vụ Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án đã chấp hành xong án phạt tù, được
đặc xá, đại xá tra cứu, xác minh để thực hiện cung cấp thông tin về việc chấp
hành xong án phạt tù, được đặc xá, đại xá có trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 để
lập Lý lịch tư pháp của người bị kết án theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định
số 111/2010/NĐ-CP.
6.2. Tra cứu thông tin lý lịch tư pháp có trước ngày 01-07-2010 tại Tòa án
- Để khẳng định người được cấp lý lịch
tư pháp có án tích hay không nếu trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan Công an
vẫn chưa đủ căn cứ để kết luận hoặc nội dung về tình trạng án tích của đương sự
có điểm chưa rõ ràng, đầy đủ thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư
pháp gửi văn bản đề nghị Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án hoặc đã xét xử phúc thẩm
vụ án để tra cứu hồ sơ.
Việc tra cứu thông tin được tiến hành ngay sau khi nhận
được kết quả tra cứu xác minh thông tin của cơ quan Công an và việc thông báo kết
quả trong thời hạn 05 ngày làm vệc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị.
- Trường hợp Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở
Tư pháp trực tiếp xác minh thì việc trực tiếp xác minh phải được lập thành biên
bản. Trường hợp Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp gửi văn bản
đề nghị tra cứu thông tin thì văn bản đề nghị phải ghi rõ thông tin về người được
cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
6.3. Tra cứu thông
tin lý lịch tư pháp có trước ngày 01-07-2010 tại cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ
Quốc phòng
- Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ
sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc
Sở Tư pháp gửi văn bản đề nghị Tòa án quân sự Trung ương tra cứu thông tin và
thông báo kết quả tra cứu thông tin trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được văn bản đề nghị tra cứu thông tin.
6.4. Tra cứu thông
tin lý lịch tư pháp tại cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
- Việc tra cứu thông tin lý lịch tư pháp từ ngày 01 tháng
7 năm 2010 được thực hiện tại cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp,
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia theo quy định tại Điều 47 Luật Lý lịch tư
pháp.
- Trường hợp người bị Tòa án kết án trước ngày 01 tháng 7
năm 2010 nhưng từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia
hoặc Sở Tư pháp đã lập Lý lịch tư pháp của người đó theo quy định tại Điều 12
Nghị định số 111/2010/NĐ-CP thì việc tra cứu thông tin được thực hiện tại cơ sở
dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp, Sở Tư pháp để cấp Phiếu
lý lịch tư pháp của người đó khi có yêu cầu.
7. Phối hợp cung cấp, xác minh, rà soát thông tin lý lịch
tư pháp
7.1. Phối hợp cung cấp thông tin
Việc phối hợp
cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ
quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác theo quy định tại Điều 5 và Điều 16 Nghị định
số 111/2010/NĐ-CP được thực hiện như sau:
Trong quá trình cập nhật thông tin lý lịch tư
pháp, trường hợp các thông tin về nhân thân của người bị kết án... có điểm chưa
rõ ràng, chính xác thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp gửi
văn bản cho các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư, hộ tịch, hộ khẩu, chứng
minh nhân dân để xác minh, làm rõ, như sau:
- Cơ quan quản
lý cơ sở dữ liệu về dân cư, cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch cung cấp thông tin
về họ, tên, ngày tháng năm sinh, họ tên cha, mẹ, vợ, chồng và những thông tin
khác về nhân thân của người bị kết án, người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trong trường hợp
có sự sai lệch thông tin về nhân thân của người bị kết án, người bị cấm đảm nhiệm
chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã thì Trung tâm Lý lịch tư
pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân
cư, cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch để xác minh tính chính xác của thông tin.
- Cơ quan đăng
ký hộ tịch đã ban hành quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, cấp giấy
chứng tử cho người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện cung cấp thông tin về việc
thay đổi, cải chính hộ tịch và chứng tử;
- Cơ quan đăng
ký, quản lý cư trú; cấp, quản lý chứng minh nhân dân thực hiện xác minh, cung cấp
thông tin về nơi cư trú, số chứng minh nhân dân của người bị kết án, người bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về
dân cư; cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch; cơ quan đăng ký, quản lý cư trú; cấp,
quản lý chứng minh nhân dân có nhiệm vụ xác minh, cung cấp thông tin cho Trung
tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã đề nghị trong thời hạn 10 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị cung cấp thông tin. Đối với những trường
hợp đặc biệt cần xác minh nhiều nơi thì được phép kéo dài thời hạn nhưng không
quá 20 ngày làm việc.
7.2. Phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên
được xoá án tích
- Sở Tư pháp phối
hợp với UBND cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người kết án cư trú sau khi chấp hành
xong bản án xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
trong thời hạn đang có án tích hay không;
Cán bộ tư pháp - hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân
cấp xã thực hiện xác minh Trường hợp cần thiết, cán bộ tư pháp - hộ tịch báo
cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để phối hợp với Công an cấp xã thực hiện
xác minh;
- Trung tâm Lý
lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp gửi văn bản yêu cầu xác minh cho Tòa án,
Viện kiểm sát, Công an; Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra có nhiệm vụ
gửi văn bản thông báo kết quả xác minh
- Ủy ban nhân dân cấp xã, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ
quan Thi hành án dân sự có nhiệm vụ gửi văn bản thông báo kết quả xác minh về
điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư
pháp khi nhận được yêu cầu của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư
pháp trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu.
7.3. Phối hợp rà soát cung cấp thông tin lý lịch
tư pháp
- Định kỳ 6
tháng và hằng năm, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia phối hợp với Tòa án quân
sự Trung ương, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Cục hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát, Cục Theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư
pháp thuộc Bộ Công an, các trại giam, trại tạm giam, Phòng Cảnh sát thi
hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh, Tổng cục Thi hành án dân sự
thuộc Bộ Tư pháp thực hiện rà soát về số lượng thông tin lý lịch tư pháp đã
cung cấp.
Trung tâm Lý lịch
tư pháp quốc gia phối hợp với Vụ Thống kê tổng hợp thuộc Tòa án nhân dân tối
cao trong việc rà soát cung cấp thông tin lý lịch tư pháp do Tòa án cung cấp.
- Định kỳ hằng
quý: Sở Tư pháp phối hợp với các Tòa phúc thẩm, Ban Thư ký Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự huyện,
Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Công an cấp tỉnh, Công an cấp huyện để thực hiện việc rà
soát.
- Định kỳ 06 tháng và hằng
năm: trên cơ sở kết quả rà soát cung cấp thông tin lý lịch tư pháp, Trung tâm
Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp phối hợp thực hiện rà soát việc cung cấp
thông tin lý lịch tư pháp.
Tags:
chuyende,
hinhsu
Ý kiến bạn đọc [ 0 ]
Ý kiến của bạn
- Từ ngày 14/08/2011 để tránh Spam do vậy Comment nặc danh xẽ bị khóa
- Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu để mọi người dễ đọc hơn!
- Mọi thắc mắc, gợi ý hoặc bình luận xin chia sẻ bên dưới hoặc Gửi thư hay Báo lỗi
- Các bạn có thể mã hóa Code TẠI ĐÂY
Thank You!